BẢN ÁN HÌNH SỰ PHÚC THẨM 03/2014/HSPT1 NGÀY 12/6/2014 VỀ VỤ ÁN LƯU THỊ HỒNG, TRƯƠNG VĂN DOÃN PHẠM TỘI "LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN"

TOÀ ÁN QUÂN SỰ TRUNG ƯƠNG

...

Ngày 12-6-2014 tại Tòa án quân sự Quân khu 2 đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 03/2014/HSPT1 ngày 26-3-2014 đối với các bị cáo Lưu Thị Hồng và Trương Văn Doãn do có kháng cáo của bị cáo, người bị hại và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 đối với bản án hình sự sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 20-2-2014 của Tòa án quân sự Quân khu 2.

Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo, kháng nghị:

1. Lưu Thị Hồng, sinh 15-02-1971; tại xã Nam Mứn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; nơi đăng ký HKTT: bản Áng, xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; chỗ ở hiện nay: bản Híp, xã Chiềng Ngần, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; CMTND (đã bị mất); nghề nghiệp: Giáo viên trường THPT Chu Văn Thịnh, Mai Sơn, Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hóa: 10/10; con ông Lưu Đình Bân (đã chết) và bà Quàng Thị Ín; có chồng là Hà Sơn Bình và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 15-01-2013; hiện đang tạm giam tại trại tạm giam quân sự Quân khu 2. Có mặt.

2. Trương Văn Doãn, sinh 15-8-1966; tại xã An Thanh, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương; chỗ ở hiện nay: tổ 38, khu 4, phường Nông Trang, thành phố Việt Trì, tỉnh phú Thọ; CMTND số 050499526 do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 17-11-2003; cấp bậc, chức vụ, đơn vị khi phạm tội: Trung tá, Trợ lý quân lực, Ban CHQS huyện Mai Sơn, Bộ CHQS tỉnh Sơn La (nghỉ hưu từ 01-11-2013); dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch Việt Nam; trình độ văn hóa: 10/10; con ông Trương Khắc Thế và bà Phạm Thị The; có vợ là Nguyễn Thị Thủy và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 16-4-2013. Có mặt

Người bị hại có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị:

1. Nguyễn Thị Bình, sinh ngày 24-4-1973; nơi cư trú: bản Tiến Xa, xã Mường Bon, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Ủy quyền cho chồng là Nguyễn Văn Giảng, sinh 10-02-1967 tham gia phiên tòa. Có mặt

2. Chu Đức Tùng, sinh ngày 11-10-1961; nơi cư trú: số nhà 188, xóm 2, tiểu khu 6, thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.

3. Nguyễn Văn Thủy, sinh ngày 15-9-1965; nơi cư trú: tiểu khu Bình Minh, xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Ủy quyền cho ông Chu Đức Tùng tham gia phiên tòa.

4. Đặng Văn Trọng, sinh 25-9-1971; nơi cư trú: tổ 16, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt

5. Nguyễn Thị Vân, sinh ngày 10-10-1963; nơi cư trú: bản Nà Si, xã Hát Lót, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Vắng mặt

6. Vũ Thị Huấn, sinh ngày 25-5-1961; nơi cư trú: thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Vắng mặt

7. Hoàng Thị Nhân, sinh ngày 04-8-1963; nơi cư trú: khối phố 13, thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Vắng mặt

8. Nguyễn Văn Nhị, sinh ngày 08-3-1982; nơi cư trú: Trường THCS xã Chiềng Ơn, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La. Vắng mặt

9. Trương Thanh Hà (nữ), sinh ngày 18-11-1982; nơi cư trú: Trường THCS xã Chiềng Ơn, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La. Vắng mặt

10. Vũ Hồng Tuyển, sinh ngày 16-10-1963; nơi cư trú: phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Vắng mặt

NHẬN THẤY

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 và Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 20-02-2014 của Toà án quân sự Quân khu 2 thì nội dung vụ án tóm tắt nh­ư sau:

Cuối năm 2009, Trương Văn Doãn được Lưu Thị Hồng nói quen biết nhiều người có khả năng xin được vào học các Học viện, Nhà trường trong Quân đội và xin việc làm, chuyển công tác về một số cơ quan trong tỉnh Sơn La. Hồng thỏa thận với Doãn mỗi trường hợp xin được thì mỗi người hưởng 10 triệu đồng. Thông qua công việc và các mối quan hệ, Doãn đã gặp nhiều người và nói với họ về việc mình có khả năng xin cho các đối tượng vào học tại các Học viện, Nhà trường trong Quân đội và xin việc làm, chuyển công tác. Do đó, từ tháng 4-2011 đến 01-2012 Doãn đã trực tiếp nhận 14 hồ sơ và 1.070.000.000 đồng của những người bị hại. Cụ thể là:

* Đối với những người xin cho con đi học:

Khoảng tháng 4-2011, Doãn gặp và nói với bà Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Văn Thủy về việc Doãn có khả năng xin mấy suất đi học trường sỹ quan Lục quân 1 theo diện cử tuyển, chi phí 220.000.000 đồng/suất, đưa trước 100.000.000 đồng.

Tin lời Doãn, ngày 22-4-2011 bà Bình đã đưa hồ sơ của con trai là Nguyễn Văn Vũ và 100.000.000 đồng cho Doãn. Đến ngày 06-12-2011, Doãn điện cho bà Bình nói đã có quyết định đi học và yêu cầu đưa thêm tiền, nên ngày 08-12-2011 bà Bình đưa tiếp 30.000.000 đồng cho Doãn. Ngày 10-5-2011 ông Thủy đưa hồ sơ của con trai là Nguyễn Xuân Toàn và 100.000.000 đồng cho Doãn, Doãn hứa đến ngày 30-9-2011 sẽ có quyết định đi học. Cùng thời gian này, bà Nguyễn Thị Vân được Doãn tư vấn và hứa hẹn sẽ xin cho con gái bà là Bùi Thị Hải Yến đỗ vào Học viện quân y với chi phí 160.000.000 đồng. Nên ngày 22-6-2011 bà Vân đã đưa cho Doãn hồ sơ của Yến và 50.000.000 đồng, đến ngày 28-8-2011 đưa tiếp 110.000.000 đồng cho Doãn.

Doãn tiếp tục gặp và nói với ông Đặng Văn Trọng, bà Vũ Thị Huấn, ông Phạm Văn Côn là sẽ nhờ người xin được cho con họ đi học thiếu sinh quân tại trường quân sự Quân khu 2, sau này tiếp tục học tại các Học viện, Nhà trường trong Quân đội theo diện cử tuyển. Ngày 04-6-2011 ông Đặng Văn Trọng đưa 100.000.000 đồng và hồ sơ của con gái là Đặng Thị Huyền cho Doãn, sau đó Doãn giới thiệu Lưu Thị Hồng với ông Trọng, đồng thời cho biết Hồng là người cùng mình xin cho cháu Huyền đi học. Ngày 04-9-2011 ông Trọng đưa 50.000.000 đồng, đến ngày 01-01-2012 đưa thêm 50.000.000 đồng nữa cho Hồng. Ngày 24-5-2011 bà Vũ Thị Huấn đưa hồ sơ của con là Hoàng Tuấn Anh và 20.000.000 đồng, đến ngày 04-6-2011 đưa thêm 30.000.000 đồng cho Doãn. Tháng 8-2011, ông Phạm Văn Côn đưa hồ sơ của con là Phạm Minh Đức và 30.000.000 đồng cho Doãn.

Tổng cộng, Trương Văn Doãn đã nhận 06 hồ sơ xin đi học và 670.000.000 đồng rồi chuyển cho Hồng nhưng Hồng không xin được cho trường hợp nào và Hồng chuyển lại cho Doãn 50.000.000 đồng. Còn lại 620.000.000 đồng Hồng chiếm đoạt. Đến ngày 16-9-2011, Doãn trả cho Nguyễn Thị Vân 150.000.000 đồng. Ngày 25-9-2011, ngày 02-10-2011 và ngày 05-12-2011, Doãn đã trả cho bà Vũ Thị Huấn 30.000.000 đồng.

Tổng cộng, 02 bị cáo đã chiếm đoạt của 06 gia đình 490.000.000 đồng.

* Đối với những người xin việc làm:

Cuối tháng 4-2011, Doãn nói với ông Vũ Thanh Xuân và ông Chu Đức Tùng về khả năng xin được việc làm tại các cơ quan trong tỉnh Sơn La, với giá 60.000.000 đồng/người, đưa trước 50%, khi nào có quyết định thì đưa nốt số tiền còn lại.

Tin lời Doãn, ngày 04-6-2011 ông Xuân đưa hồ sơ và 30.000.000 đồng cho Doãn để xin việc cho con là Vũ Xuân Dương vào trung tâm 06 của tỉnh Sơn La. Ngày 09-6-2011, ông Tùng đưa hồ sơ của con trai là Chu Đức Nhật Anh và 100.000.000 đồng cho Doãn để xin vào lái xe ở Công an tỉnh Sơn La (với giá 150.000.000 đồng). Doãn nói chậm nhất ngày 30-9-2011 sẽ có quyết định. Ngày 25-7-2011, ông Tùng lại đưa hồ sơ của Phạm Trường Giang, Bùi Thị Ngọc, Quàng Thị Ninh là con và cháu của ông Phạm Văn Vang (bạn của ông Tùng) cùng với 90.000.000 đồng cho Doãn để xin 01 suất vào Trung tâm 06 của tỉnh Sơn La, 02 suất làm tại Trại trẻ mồ côi tỉnh Sơn La. Đến đầu tháng 9-2011 Doãn nói với ông Tùng là đã có quyết định đi làm và yêu cầu ông Tùng đưa nốt số tiền còn lại như thỏa thuận. Nên ngày 14-9-2011, ông Tùng cùng Doãn đến nhà Hồng, ông Tùng đưa cho Doãn 140.000.000 đồng. Tổng số tiền Doãn nhận của ông Tùng là 330.000.000 đồng.

Ngày 26-7-2011 bà Hoàng Thị Nhân giao hồ sơ của con gái là Đỗ Thị Thanh Hà và 30.000.000 đồng cho Doãn để xin vào làm tại Trung tâm 06 của huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La với chi phí 70.000.000 đồng, Doãn hẹn đến tháng 8-2011 sẽ đi làm. Đến ngày 14-9-2011 Doãn điện cho bà Nhân nói đã có quyết định đi làm và yêu cầu đưa nốt số tiền còn lại để lấy quyết định. Ngày 16-9-2011, bà Nhân nộp 40.000.000 đồng cho Doãn.

Tổng cộng Doãn đã nhận 06 hồ sơ và 430.000.000 đồng của những người xin việc làm. Doãn đã chuyển cho Lưu Thị Hồng 03 hồ sơ của các trường hợp: Chu Đức Nhật Anh, Phạm Trường Giang, Quàng Thị Ninh và 130.000.000 đồng. Còn lại hồ sơ và số tiền của các trường hợp: Vũ Xuân Dương, Bùi Thị Ngọc, Đỗ Thị Thanh Hà thì Doãn chiếm đoạt. Ngày 05-12-2011 và 21-12-2011 Doãn đã trả cho ông Vũ Thanh Xuân 20.000.000 đồng.

Tổng cộng, 02 bị cáo đã chiếm đoạt 410.000.000 đồng.

* Đối với những người chuyển công tác:

Thông qua giới thiệu của người khác, vợ chồng anh Nguyễn Văn Nhị và chị Trương Thanh Hà đang dạy học ở huyện Quỳnh Nhai đến gặp Doãn. Doãn nói sẽ giúp anh Nhị chuyển về làm phó phòng nhân sự thuộc Sở Lao động thương binh và xã hội tỉnh Sơn La với chi phí 100.000.000 đồng, xin cho chị Hà về làm tại Trung tâm 06 của tỉnh Sơn La với chi phí 70.000.000 đồng. Tổng cộng 170.000.000 đồng, Doãn đã chuyển hồ sơ của anh Nhị, chị Hà và 60.000.000 đồng cho Lưu Thị Hồng, còn 110.000.000 đồng Doãn chiếm đoạt chi tiêu cá nhân.

* Ngoài việc cùng Doãn thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của những người bị hại trên, từ tháng 3-2008 đến 01-2012, Lưu Thị Hồng đã tự mình nhận 10 hồ sơ của 08 người bị hại khác với số tiền 406.500.000 đồng. Trong đó, có ông Vũ Hồng Tuyển 57.500.000 đồng xin cho 02 con là Vũ Đại Phong và Vũ Thị Thúy Nga đi học. Tháng 9-2011, Hồng đã trả cho ông Vũ Hồng Tuyển 29 triệu đồng, còn nợ 28.500.000 đồng. Còn lại 377.500.000 đồng Hồng chiếm đoạt.

Như vậy, trong vụ án này Lưu Thị Hồng độc lập lừa đảo, chiếm đoạt của 08 người bị hại với số tiền 377.500.000 đồng. Doãn và Hồng nhận 14 hồ sơ và chiếm đoạt 1.070.000.000 đồng của những người bị hại, trong đó Doãn đã chuyển cho Hồng 11 hồ sơ và 810.000.000 đồng, còn 03 hồ sơ Doãn không chuyển cho ai và chiếm đoạt 260.000.000 đồng. Số tiền chiếm đoạt được, Doãn khai đã chi dùng cá nhân hết. Hồng khai dùng tiền đầu tư nuôi nhím, xây 01 nhà lợp tôn và cơi nới 02 gian nhà trên đất và nhà của em chồng để kinh doanh Internet; đang xây dở 01 nhà cấp 4 trên đất của bố mẹ chồng; mua hệ thống máy vi tính, đồ điện tử và thuê xe ô tô cho chồng đi lại hết khoảng 536.428.000 đồng, còn lại Hồng đã chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 08-02 và ngày 17-02-2014, theo yêu cầu của bị cáo Trương Văn Doãn, gia đình bị cáo đã nộp cho phòng Thi hành án Quân khu 2 số tiền 70.000.000 đồng để trả cho các ông Vũ Thanh Xuân 10 triệu đồng; bà Vũ Thị Huấn 20 triệu; vợ chồng Nhị Hà 20 triệu và ông Chu Đức Tùng 20 triệu đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 20-02-2014 của Toà án quân sự Quân khu 2 đã quyết định:

1. Về hình sự: Tuyên bố bị cáo Lưu Thị Hồng và Trương Văn Doãn phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; ý 1 điểm g khoản 1 Điều 48; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lưu Thị Hồng 13 (mười ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 14-01-2013.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; ý 1 điểm g khoản 1 Điều 48; điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trương Văn Doãn 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 16-4-2013.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 604; khoản 1 Điều 605; khoản 1 Điều 608; Điều 616 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Lưu Thị Hồng và Trương Văn Doãn phải có trách nhiệm liên đới bồi thường tiếp cho những người bị hại tương ứng với số tiền từng bị cáo còn chiếm đoạt. Cụ thể là:

- Bị cáo Lưu Thị Hồng còn phải bồi thường tiếp cho 06 người bị hại với tổng số tiền là 650.000.000 đồng gồm: bà Nguyễn Thị Bình: 130.000.000 đồng; ông Nguyễn Văn Thủy: 100.000.000 đồng; ông Đặng Văn Trọng: 200.000.000 đồng; ông Phạm Văn Côn: 30.000.000 đồng; ông Chu Đức Tùng: 130.000.000 đồng; chị Trương Thanh Hà: 60.000.000 đồng.

- Bị cáo Trương Văn Doãn còn phải bồi thường tiếp cho 04 người bị hại với tổng số tiền là 350.000.000 đồng gồm: bà Nguyễn Thị Vân: 10.000.000 đồng; ông Chu Đức Tùng: 180.000.000 đồng; bà Hoàng Thị Nhân: 70.000.000 đồng; anh Nguyễn Văn Nhị: 90.000.000 đồng.

* Ghi nhận:

- Bị cáo Trương Văn Doãn đã trả trước khi xét xử cho: bà Vũ Thị Huấn 30.000.000 đồng; ông Vũ Thanh Xuân 20.000.000 đồng;

- Theo yêu cầu của bị cáo Doãn, gia đình bị cáo đã nộp cho phòng Thi hành án Quân khu 2 số tiền 70.000.000 đồng để trả cho những người bị hại gồm:

+ Ngày 08-12-2014, nộp 40.000.000 đồng để trả lại cho: ông Vũ Thanh Xuân 10.000.000 đồng; bà Vũ Thị Huấn 20.000.000 đồng và chị Trương Thanh Hà 10.000.000 đồng.

+ Ngày 17-02-2014, nộp 30.000.000 đồng để trả cho: anh Nguyễn Văn Nhị 10.000.000 đồng và ông Chu Đức Tùng 20.000.000 đồng.

+ Bị cáo Lưu Thị Hồng đã trả cho ông Vũ Hồng Tuyển 29.000.000 đồng.

+ Ghi nhận các bị cáo đã trả 150.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị Vân.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn Quyết định về bồi thường cho những người bị hại khác, tính lãi suất chậm trả, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 26-02-2014, bị cáo Trương Văn Doãn kháng cáo cho rằng, Tòa án quân sự Quân khu 2 buộc tôi phải chịu số tiền 150 triệu đồng là chưa đúng, vì số tiền này tôi đã mang đến nhà vợ chồng Vân, Đạt nộp, gia đình họ đã thừa nhận và viết giấy. Đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 22 và 24-02-2014, ông Nguyễn Văn Giảng, Chu Đức Tùng, Nguyễn Văn Thủy và ông Đặng Văn Trọng kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Trương Văn Doãn lên 20 năm tù; Lưu Thị Hồng 18 năm tù. Về dân sự, buộc hai bị cáo bồi thường toàn bộ số tiền cho những người bị hại. Riêng ông Thủy và ông Giảng còn cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không triệu tập đến dự phiên tòa mà ngày 18-02-2014 Thư ký mới điện thoại thông báo.

Ngày 07-3-2014, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 20-02-2014 của Tòa án quân sự Quân khu 2, với nội dung:

+ Kết luận tổng số tiền các bị cáo Lưu Thị Hồng và Trương Văn Doãn đã lừa đảo chiếm đoạt theo quy định của pháp luật;

+ Không áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Bồi thường khắc phục hậu quả” theo điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự cho bị cáo Lưu Thị Hồng với số tiền 29 triệu đồng đã trả cho ông Tuyển và 50 triệu đồng bị cáo Trương Văn Doãn đã trả cho bà Huấn, ông Xuân;

+ Tăng mức hình phạt đối với hai bị cáo Lưu Thị Hồng và Trương
Văn Doãn;

+ Quyết định về trách nhiệm bồi thường dân sự trong vụ án đối với các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Trương Văn Doãn và những người bị hại giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên kháng nghị.

Tranh luận tại phiên toà, ông Kiểm sát viên cho rằng kháng cáo của bị cáo Trương Văn Doãn, những người bị hại và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 là hợp lệ và viện dẫn các chứng cứ, chứng minh làm rõ tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của các bị cáo. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Qua nghiên cứu diễn biến nội dung vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra; căn cứ vào lời khai của bị cáo và những người bị hại đã được thẩm tra tại phiên tòa hôm nay, cho thấy:

Về kết luận tổng số tiền các bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt.

Trong khoảng thời gian từ tháng 4-2011 đến tháng 01-2012, bị cáo Trương Văn Doãn và Lưu Thị Hồng, đã nhận tổng cộng 1.676.500.000đ của 19 người để xin cho con đi học, đi làm và xin chuyển công tác nhưng không được trường hợp nào. Từ tháng 9 đến tháng 12-2011, Trương Văn Doãn đã trả cho bà Vân 150.000.000đ; bà Huấn 30.000.000đ; ông Xuân 20.000.000đ. Lưu Thị Hồng đã trả cho ông Tuyển 29.000.000đ. Tổng cộng, 02 bị cáo đã trả số tiền 229.000.000đ. Số còn lại 1.447.500.000đ, Doãn, Hồng chiếm đoạt.

Ngày 14-01-2013, Cơ quan pháp luật khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với Trương Văn Doãn và Lưu Thị Hồng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Như vậy, cho thấy số tiền 229.000.000đ các bị cáo đã thanh toán cho các ông, bà nêu trên trước khi khởi tố vụ án hình sự, người bị hại không có ý kiến gì về số tiền này. Viện kiểm sát chỉ truy tố các bị cáo đã chiếm đoạt của những người bị hại số tiền 1.447.500.000 đồng. Nên Tòa án cấp sơ thẩm nhận định và kết luận các bị cáo lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền 1.676.500.000đ của 19 người là không đúng.

Về áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Bồi thường khắc phục hậu quả” tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS cho bị cáo Lưu Thị Hồng và Trương Văn Doãn.

 Số tiền Trương Văn Doãn đã trả cho bà Huấn 30.000.000đ, ông Xuân 20.000.000đ, Lưu Thị Hồng trả cho ông Tuyển 29.000.000đ là tiền đã được trả trước khi chưa khởi tố vụ án 14 tháng. Hơn nữa, sau khi nhận lại tiền các ông, bà nêu trên không có ý kiến gì. Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS khắc phục hậu quả..”. là không có cơ sở.

Trước khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Doãn đã yêu cầu gia đình giúp đỡ việc bồi thường khắc phục hậu quả của vụ án. Gia đình bị cáo đã nộp cho Phòng Thi hành án Quân khu 2 số tiền là 70.000.000đ để trả cho những người bị hại. Theo hướng dẫn của Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì Tòa án quân sự Quân khu 2 cho bị cáo Doãn được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS là có căn cứ pháp luật.

* Về mức hình phạt đối với bị cáo Lưu Thị Hồng và Trương Văn Doãn.

Bị cáo Trương Văn Doãn, bị truy tố xét xử theo điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, có khung hình phạt tù từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân; bị cáo được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, p, s khoản 1và khoản 2 Điều 46; có 01 tình tiết tăng nặng tại khoản 1 Điều 48 BLHS, và được áp dụng Điều 47 BLHS. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 08 (tám) năm tù là bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật. Do vậy, không cần thiết tăng mức hình phạt như kháng cáo của người bị hại, kháng nghị của Viện kiểm sát Quân khu 2, cũng như không thể giảm thấp hơn như kháng cáo của bị cáo Doãn.

Bị cáo Lưu Thị Hồng chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; có 01 tình tiết tăng nặng tại khoản 1 Điều 48 BLHS; không được áp dụng Điều 47 BLHS, bị xét xử tại khoản 4 Điều 139 BLHS có khung hình phạt tù từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo được hưởng điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS là không đúng, bị cáo là người chủ mưu, số tiền chiếm đoạt nhiều hơn bị cáo Doãn. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 13 (mười ba) năm tù là nhẹ. Vì vậy, kháng nghị của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2, cũng như kháng cáo của người bị hại về tăng mức hình phạt đối với Lưu Thị Hồng là có cơ sở.

* Về trách nhiệm bồi thường dân sự trong vụ án.

Từ tháng 04-2011 đến tháng 01-2012 Trương Văn Doãn và Lưu Thị Hồng nhận 14 hồ sơ và chiếm đoạt 1.070.000.000đ; Từ tháng 03-2008 đến 01-2012 Lưu Thị Hồng đã độc lập nhận 10 hồ sơ của 08 người và chiếm đoạt 377.500.000đ. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trách nhiệm liên đới bồi thường cho những người bị hại tương ứng với số tiền mỗi bị cáo còn chiếm đoạt là có căn cứ. Cụ thể:

Bị cáo Lưu Thị Hồng còn phải bồi thường tiếp cho 06 người bị hại với số tiền là 650.000.000đ. Cụ thể: bà Bình 130.000.000đ; ông Thủy 100.000.000đ; ông Trọng 200.000.000đ; ông Côn 30.000.000đ, ông Tùng 130.000.000đ, chị Hà 60.000.000đ. Ngoài ra bị cáo Lưu Thị Hồng còn phải chịu trách nhiệm độc lập bồi thường cho 08 người bị hại khác với tổng số tiền 377.500.000 đồng.

Bị cáo Trương Văn Doãn phải bồi thường 420.000.000 đồng cho những người bị hại. Đã bồi thường 70.000.000 đồng, còn phải bồi thường tiếp cho 04 người bị hại tổng cộng 350.000.000đ. Gồm: bà Vân 10.000.000đ; ông Tùng 180.000.000đ; bà Nhân 70.000.000đ; anh Nhị 90.000.000đ.

Như vậy, quyết định của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm bồi thường của các bị cáo như trên là chính xác. Kháng nghị của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 cho rằng tổng số tiền Hồng lừa đảo chiếm đoạt của người bị hại là 810 triệu đồng, Doãn 260 triệu đồng là không có cơ sở.

* Về số tiền 150.000.000 đồng, ngày 16-9-2011 bị cáo Trương Văn Doãn đã trả cho bà Nguyễn Thị Vân trước khi vụ án được khởi tố và Viện kiểm sát cũng không truy tố hành vi chiếm đoạt khoản tiền này. Vì vậy, số tiền này không thuộc phạm vi giải quyết của Tòa án và kháng cáo của bị cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát.

Tại phiên toà, bị cáo Lưu Thị Hồng đề nghị Tòa xem xét, với mức án 13 năm tù là đã quá nặng; bị cáo còn con nhỏ, đề nghị giữ nguyên mức án 13 năm tù để bị cáo cố gắng cải tạo tốt sớm được trở về làm ăn lấy tiền trả cho những người bị hại.

Bị cáo Trương Văn Doãn không có ý kiến gì.

Những người bị hại: ông Nguyễn Văn Giảng, Chu Đức Tùng, Đặng Văn Trọng đề nghị số tiền của những người bị hại mà Doãn trực tiếp nhận thì bị cáo Doãn phải trả cho những người bị hại.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã đ­­ược thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của những người bị hại và của bị cáo,

XÉT THẤY:

Thông qua các mối quan hệ quen biết, lợi dụng sự tin tưởng của những người bị hại, Lưu Thị Hồng và Trương Văn Doãn đã lừa dối họ về việc mình có khả năng xin cho các đối tượng vào học tại các Học viện, Nhà trường trong Quân đội và xin việc làm, chuyển công tác, nhằm chiếm đoạt tài sản. Từ tháng 4-2011 đến 01-2012 Doãn đã trực tiếp nhận 14 hồ sơ và 1.070.000.000 đồng của những người bị hại, trong đó Hồng chiếm đoạt 650.000.000 đồng, Doãn 420.000.000 đồng. Ngoài việc cùng Doãn thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của những người bị hại trên, từ tháng 3-2008 đến 01-2012 Hồng đã tự mình nhận 10 hồ sơ và 377.500.000 đồng của các cá nhân khác.

Xét các nội dung kháng cáo, kháng nghị:

Các ông Nguyễn Văn Thủy, Nguyễn Văn Giảng cho rằng không được Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập mà ngày 18-02-2014 Thư ký mới điện thoại thông báo để các ông đến dự phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy rằng, căn cứ vào biên lai chuyển phát của Bưu điện ngày 27-01-2014 thì Tòa án cấp sơ thẩm đã triệu tập những người bị hại theo đúng quy định của pháp luật. Việc Thư ký Tòa án điện thoại là biện pháp hỗ trợ trong trường hợp giấy triệu tập đến muộn hoặc có thể bị thất lạc.

Về nhận định đánh giá của Tòa án cấp sơ thẩm đối với giá trị tài sản mà bị cáo Lưu Thị Hồng, Trương Văn Doãn lừa đảo chiếm đoạt tổng cộng 1.676.500.000 đồng.

Cụ thể về khoản tiền 229.000.000 đồng: Ngày 22-6-2011 và 28-8-2011 bà Nguyễn Thị Vân đưa cho Doãn tổng số 160.000.000 đồng, do đến hẹn không có quyết định đi học, bà Vân đòi lại Doãn. Ngày 16-9-2011 Doãn trả lại bà Vân 150 triệu đồng, còn nợ 10 triệu đồng. Ngày 23-12-2011 bà Vân trình báo Công an yêu cầu Doãn hoàn trả lại 10 triệu đồng. Ngày 24-5-2011 bà Vũ Thị Huấn đưa cho Doãn 20 triệu đồng, ngày 04-6-2011 đưa tiếp 30 triệu đồng, tổng cộng 50 triệu đồng. Ngày 25-9-2011 và ngày 05-12-2011 Doãn đã trả 30 triệu đồng. Ngày 23-12-2011 bà Huấn trình báo Công an yêu cầu Doãn trả lại 20 triệu đồng. Ông Vũ Thanh Xuân ngày 04-6-2011 đưa Doãn 30 triệu đồng. Ngày 05-12-2011 và 21-12-2011 Doãn trả cho ông Xuân 20 triệu đồng. Ngày 23-12-2011 ông Xuân trình báo Công an yêu cầu Doãn trả lại 10 triệu đồng.

Ông Vũ Hồng Tuyển từ tháng 6-2009 đến 28-8-2009 đã nhiều lần đưa cho Lưu Thị Hồng tổng số tiền 57.500.000 đồng. Tháng 9-2011 Hồng trả cho ông Tuyển 29 triệu đồng, còn nợ 28.500.000 đồng. Ngày 15-6-2013 ông Tuyển trình báo Công an yêu cầu Doãn trả lại 28.500.000 đồng.

Hội đồng xét xử đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là Tòa án cấp sơ thẩm nhận định, đánh giá các bị cáo lừa đảo chiếm đoạt của những người bị hại với tổng số tiền 1.676.500.000 đồng là không đúng mà chỉ là 1.447.500.000 đồng. Bởi lẽ, sau khi nhận tiền của những người có nhu cầu đi học, xin việc làm và chuyển công tác, đến hẹn theo thỏa thuận họ không có quyết định đi học, đi làm, các bị cáo đã trả lại với số tiền 229.000.000 đồng trước thời gian vụ án được phát hiện và những người này cũng không tố cáo các bị cáo lừa đảo số tiền đó. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử khoản tiền 229.000.000 đồng mà Viện kiểm sát không truy tố là vi phạm Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong vụ án cụ thể này với khoản tiền 229.000.000 đồng cũng không làm thay đổi điều khoản truy tố, xét xử các bị cáo và cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi của những người bị hại. Nên có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 về nội dung này.

Về áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự “Tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”.

Như đã phân tích ở phần trên, Hội đồng xét xử đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát cho rằng, bị cáo Trương Văn Doãn đã trả cho bà Vũ Thị Huấn 30 triệu đồng, ông Vũ Thanh Xuân 20 triệu đồng và bị cáo Lưu Thị Hồng trả cho ông Vũ Hồng Tuyển 29 triệu đồng không phải là số tiền các bị cáo bồi thường khắc phục hậu quả. Vì vậy, bị cáo Lưu Thị Hồng, Trương Văn Doãn không được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự đối với khoản tiền này. Tuy nhiên, với bị cáo Trương Văn Doãn trước khi xét xử sơ thẩm đã nhờ gia đình nộp 70 triệu đồng cho cơ quan thi hành án để trả lại cho một số gia đình bị hại. Nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự cho Doãn hưởng tình tiết “Tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” là đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, có căn cứ đáp ứng một phần kháng nghị của Viện kiểm sát.

Về nhận định, đánh giá số tiền đã trả cho bà Nguyễn Thị Vân 150 triệu đồng.

Hội đồng xét xử nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát quân sự Trung ương và thấy rằng, Viện kiểm sát kháng nghị đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận khoản tiền 150 triệu đồng trả bà Vân tính cho bị cáo Doãn là không đúng. Bởi lẽ, khoản tiền 150 triệu đồng mà Doãn trả cho bà Vân không bị Viện kiểm sát truy tố, nên Tòa án không giải quyết khoản tiền này. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng việc tranh chấp khoản tiền đó hai bị cáo tự thỏa thuận hoặc kiện ra một Tòa án dân sự khác giải quyết là đúng. Nên không có cơ sở đáp ứng kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của bị cáo Trương Văn Doãn.

Về quyết định mức hình phạt đối với các bị cáo.

Với bị cáo Lưu Thị Hồng, Hội đồng xét xử đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, do bị cáo Hồng không được hưởng điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS nên chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ theo điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS; có 01 tình tiết tăng nặng tại khoản 1 Điều 48 BLHS và không được áp dụng Điều 47 BLHS. Mặt khác, trong vụ án bị cáo giữ vai trò chính, là người chủ mưu, số tiền chiếm đoạt nhiều hơn bị cáo Doãn. Vì vậy, xử phạt bị cáo 13 năm là nhẹ. Có căn cứ đáp ứng kháng nghị của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 và kháng cáo của những người bị hại.

Với bị cáo Trương Văn Doãn, được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, p, s khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS; có 01 tình tiết tăng nặng tại khoản 1 Điều 48 BLHS và được áp dụng Điều 47 BLHS. Ngày 03-6-2014 bị cáo Trương Văn Doãn nộp tiếp 30.000.000 đồng để trả cho những người bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 08 năm tù là đủ bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật. Do vậy, không cần thiết tăng hình phạt đối với bị cáo như kháng cáo của người bị hại, kháng nghị của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 và cũng không thể giảm thấp hơn nữa như kháng cáo của bị cáo Doãn.

Về trách nhiệm bồi thường của các bị cáo:

Hội đồng xét xử đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về quyết định của bản án sơ thẩm đối với phần trách nhiệm bồi thường của các bị cáo là đúng. Kháng nghị của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 cho rằng tổng số tiền Hồng lừa đảo chiếm đoạt của người bị hại là 810 triệu đồng, Doãn 260 triệu đồng là không có cơ sở. Bởi lẽ, không thể lấy số tiền 150 triệu đồng trước đây Doãn đã trả cho bà Vân không thuộc diện truy tố để tính trừ cho Doãn và buộc Hồng phải chịu trách nhiệm trong vụ án này. Mà cụ thể là:

Bị cáo Lưu Thị Hồng phải liên đới bồi thường cho 06 người bị hại với số tiền là 650.000.000đ. Cụ thể: bà Bình 130.000.000đ; ông Thủy 100.000.000đ; ông Trọng 200.000.000đ; ông Côn 30.000.000đ, ông Tùng 130.000.000đ, chị Hà 60.000.000đ.

Bị cáo Trương Văn Doãn phải liên đới bồi thường cho những người bị hại với tổng số tiền 420.000.000 đồng, trong đó: bà Vũ Thị Huấn 20.000.000 đồng; ông Vũ Thanh Xuân 10.000.000 đồng; ông Chu Đức Tùng 200.000.000 đồng; Nguyễn Văn Nhị 110.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị Vân: 10.000.000 đồng (khoản tiền này lẽ ra Hồng phải chịu trách nhiệm nhưng tại phiên tòa Doãn đã chấp nhận chịu trách nhiệm với bà Vân); bà Hoàng Thị Nhân: 70.000.000 đồng. Gia đình bị cáo đã nộp phòng Thi hành án Quân khu 2 số tiền 70.000.000 đồng để trả cho: bà Vũ Thị Huấn 20.000.000 đồng; ông Vũ Thanh Xuân 10.000.000 đồng; ông Chu Đức Tùng 20.000.000 đồng; Nguyễn Văn Nhị 20.000.000 đồng. Nay còn phải bồi thường tiếp 350.000.000 đồng cho: bà Nguyễn Thị Vân: 10.000.000 đồng; ông Chu Đức Tùng: 180.000.000 đồng; bà Hoàng Thị Nhân: 70.000.000 đồng; anh Nguyễn Văn Nhị: 90.000.000 đồng.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng, trong phần quyết định của Bản án số 01/2014/HSST ngày 20-02-2014 của Tòa án quân sự Quân khu 2 đối với bị cáo Trương Văn Doãn bồi thường cho những người bị hại là 350.000.000 đồng, không phải là 420.000.000 đồng như nêu trên là chưa đầy đủ, cụ thể, rõ ràng với phần ghi nhận. Sau đó lại ghi nhận bị cáo đã nộp tại phòng Thi hành án 70 triệu đồng để trả cho những người bị hại, như vậy sẽ khó khăn cho công tác thi hành án. Đồng thời ghi nhận cả những khoản tiền không thuộc quyền giải quyết của Tòa án. Những sai sót trong phần quyết định của bản án sơ thẩm về phần bồi thường thiệt hại và ghi nhận, cấp phúc thẩm sửa lại cho cụ thể, rõ ràng hơn.

Tại phiên tòa hôm nay, những người bị hại đề nghị số tiền của họ mà Trương Văn Doãn trực tiếp nhận thì bị cáo Doãn phải trả cho những người bị hại. Hội đồng xét xử đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, đây là vụ án đồng phạm nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường theo phần lỗi của mình và thực tế số tiền đã chiếm đoạt, không phụ thuộc vào việc ai là người đứng ra nhận tiền của người bị hại.

Ngày 03-6-2014 bị cáo Trương Văn Doãn nộp tiếp 30.000.000 đồng tại phòng Thi hành án quân sự Quân khu 2 để trả cho những người bị hại.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Trương Văn Doãn phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 248; khoản 3 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm Toà án quân sự Trung ương,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Văn Doãn và người bị hại, kháng nghị của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 20-02-2014 của Toà án quân sự Quân khu 2 về quyết định hình phạt đối với bị cáo Trương Văn Doãn và quyết định bồi thường thiệt hại đối với bị cáo Lưu Thị Hồng.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; ý 1 điểm g khoản 1 Điều 48; điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trương Văn Doãn 08 (tám) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 16-4-2013.

Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 604; khoản 1 Điều 605; khoản 1 Điều 608; Điều 616 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Lưu Thị Hồng phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho những người bị hại tương ứng với số tiền bị cáo chiếm đoạt với số tiền là 650.000.000đ. Cụ thể: bà Bình 130.000.000đ; ông Thủy 100.000.000đ; ông Trọng 200.000.000đ; ông Côn 30.000.000đ, ông Tùng 130.000.000đ, chị Hà 60.000.000đ. Ngoài ra bị cáo Lưu Thị Hồng còn phải chịu trách nhiệm độc lập bồi thường cho 08 người bị hại khác với tổng số tiền 377.500.000 đồng.

2. Sửa bản án sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 20-02-2014 của Toà án quân sự Quân khu 2 về quyết định hình phạt đối với bị cáo Lưu Thị Hồng và quyết định bồi thường thiệt hại và ghi nhận đối với bị cáo Trương Văn Doãn. Nay tuyên:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; ý 1 điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lưu Thị Hồng 13 (mười ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 14-01-2013.

Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 604; khoản 1 Điều 605; khoản 1 Điều 608; Điều 616 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Trương Văn Doãn phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho những người bị hại tương ứng với số tiền 420.000.000 đồng, đã nộp tại phòng Thi hành án Quân khu 2 số tiền 70.000.000 đồng để bồi thường cho một số người bị hại, còn phải bồi thường tiếp 350.000.000 đồng. Cụ thể là:

+ Bà Vũ Thị Huấn 20.000.000 đồng; ghi nhận bị cáo đã bồi thường xong 20.000.000 đồng;

+ Ông Vũ Thanh Xuân 10.000.000 đồng, ghi nhận bị cáo đã bồi thường xong 10.000.000 đồng;

+ Ông Chu Đức Tùng 200.000.000 đồng, ghi nhận bị cáo đã bồi thường 20.000.000 đồng, còn phải bồi thường tiếp 180.000.000 đồng;

+ Nguyễn Văn Nhị 110.000.000 đồng, ghi nhận bị cáo đã bồi thường 20.000.000 đồng, còn phải bồi thường tiếp 90.000.000 đồng;

+ Bà Nguyễn Thị Vân: 10.000.000 đồng;

+ Bà Hoàng Thị Nhân: 70.000.000 đồng.

* Ghi nhận: ngày 03-6-2014 bị cáo Trương Văn Doãn nộp tiếp 30.000.000 đồng tại phòng Thi hành án quân sự Quân khu 2 để trả cho những người bị hại.

3. Về án phí. Áp dụng Điều 99 BLTTHS, bị cáo Trương Văn Doãn phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 01/2014/HSST không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

                                                                                                                

Tên bản án

Bản án hình sự phúc thẩm 03/2014/HSPT1 về vụ án Lưu Thị Hồng, Trương Văn Doãn phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án