TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TÒA PHÚC THẨM TẠI THÀNH PHỐ HCM

-----------------------------------

Bản án số: 04/2006/KDTM-PT

Ngày: 27/10/ 2006

Về việc: “Đòi bồi thường thiệt hại hợp

đồng do đơn phương chấm dứt hợp đồng”.

 

CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

 

----------------------------

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 

TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TẠI THÀNH PHỐ HCM

Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

 

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Xuân H

Các Thẩm phán:

1.        Ông Phạm Anh M

2.        Ông Hà Tiến T

       Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Hoàng Bích K, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM.

Trong ngày 27 tháng 10 năm 2006 tại trụ sở Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 75/2006/TLPT-KDTM ngày 17 tháng 8 năm 2006 về “Đòi tài sản”.

       Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 379/2006/QĐ-KDTMPT ngày 05 tháng 9 năm

2006 giữa các đương sự:

Nguyên đơn :

NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Thanh Thanh

       Địa chỉ : HTQ, phường LT, quận TĐ, thành phố HCM.

       Đại diện hợp pháp theo ủy quyền: Bà Phạm Thị Tuyến (có mặt)

       Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư LKT – Đoàn Luật sư thành phố HCM (có mặt).

Bị đơn :

1. Anh BĐ_Mai Văn Vĩnh, sinh năm 1964 (có mặt)

2. Chị BĐ_Nguyễn Thanh Lan, sinh năm 1965 (vắng mặt)

Cùng trú tại: xóm 8, thị trấn TP, huyện TP, tỉnh ĐN.

NHẬN THẤY:

      Trong Đơn khởi kiện ngày 08/6/2004 được bổ sung các ngày 05/8/2004, ngày 11/8/2004,

ngày 25/8/2004 và ngày 25/3/2005, ngày 16/3/2006 và tại phiên tòa chị Phạm Thị Tuyến đại

diện nguyên đơn trình bày:

        NĐ_Công ty TNHH Thanh Thanh là Công ty hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ngành nghề sản xuất là các mặt hàng nước giải khát. Theo đó, năm 1997 và năm 2000 giữa NĐ_Công ty và anh BĐ_Mai Văn Vĩnh có ký hợp đồng và hợp đồng đại lý đặc biệt cùng thỏa thuận để anh BĐ_Vĩnh mở đại lý bán hàng các sản phẩm của NĐ_Công ty. Thời gian đầu hai bên thực hiện hợp đồng không có vướng mắc gì. Đến năm 2003 thì phát sinh tranh chấp. Nguyên nhân do anh BĐ_Vĩnh không thanh toán tiền hàng cho NĐ_Công ty. Tại Biên bản xác nhận nợ ngày 23/10/2003 thì anh BĐ_Vĩnh còn nợ NĐ_Công ty số tiền nước là 991.289.860đ và 115.576 két vỏ chai. Sau khi xem xét đối chiếu qua các lần anh BĐ_Vĩnh thanh toán, các khoản hoa hồng, khuyến mãi anh BĐ_Vĩnh được hưởng, NĐ_Công ty nhất trí giảm nợ cho anh BĐ_Vĩnh tổng số 390.845.000đ tiền nước và 510 két vỏ chai. Như vậy, anh BĐ_Vĩnh còn nợ NĐ_Công ty:

        Tiền nước: 600.444.860đ;

        Vỏ chai: 115.066 két.

       (Giá trị vỏ chai là 63.200đ/két x 115.066 két = 7.272.171.200đ).

       Nay NĐ_Công ty yêu cầu vợ chồng anh BĐ_Vĩnh, chi ̣ BĐ_Lan có trách nhiệm thanh toán cho NĐ_Công ty số tiền nước và số vỏ chai trên. Ngoài ra NĐ_Công ty còn yêu cầu anh BĐ_Vĩnh, chi ̣ BĐ_Lan phải trả lãi đối với số tiền nước còn thiếu tính từ ngày 23/11/2003 đến

nay theo mức lãi quá hạn của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm hiện nay.

        Bị đơn anh BĐ_Mai Văn Vĩnh đồng thời đại diện cho bị đơn chị BĐ_Nguyễn Thanh Lan. Tại Đơn phản tố ngày 19/4/2005 được bổ sung các ngày 18/4/2006, ngày 03/3/2006, ngày 12/6/2006 và tại phiên toà trình bày:

        Anh xác nhận chỉ còn nợ NĐ_Công ty tiền nước là 461.844.860đ và 115.066 két vỏ chai vì theo Giấy xác nhận nợ ngày 23/10/2003 thì số tiền nợ nước là 991.289.860đ và vỏ chai là 115.567 két. Đây là số nợ ban đầu. Sau đó, NĐ_Công ty chỉ xem xét trừ cho anh qua các lần anh

thanh toán nhưng không xem xét và trừ số tiền 135.000.000đ do anh được nhận khuyến mãi trong đợt tháng 5, 6/1999. Vì vậy, anh không đồng ý với yêu cầu của NĐ_Công ty. Anh đề nghị

Toà án xem xét để NĐ_Công ty trừ nợ số tiền 135.000.000đ do anh được nhận khuyến mãi trong

đợt tháng 5, 6/1999. Đồng thời tính lãi của khoản tiền này theo mức lãi quá hạn từ tháng 7/1999 đến nay là 84 tháng = 106.312.500đ.

        Về phần vỏ chai: Do là vật dễ vỡ. Hơn nữa trong quá trình kinh doanh, NĐ_Công ty có

cho nhân viên hỗ trợ bán hàng theo chỉ định của một giám sát khu vực làm tổ trưởng. Số nhân

viên này thường xuyên bị thay đổi và nghỉ việc đột xuất. Do việc kinh doanh như vậy, anh không

giám sát được lượng vỏ chai do các nhân viên này bán. Nay các nhân viên này nghỉ việc anh không kiếm được. Đề nghị NĐ_Công ty trừ tỉ lệ khấu hao vỏ chai do vỡ, thất thoát cho anh là

50% trên số vỏ chai anh còn thiếu.

        Ngoài ra anh còn yêu cầu, đề nghị Toà buộc NĐ_Công ty phải bồi thường thiệt hại cho

anh do NĐ_Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng làm anh bị mất thu nhập vì không tiếp tục

kinh doanh không thu lãi và không thu hồi được nợ, không thu hồi được vỏ chai. Thiệt hại cụ thể

là 14.400.000đ/tháng x 30 tháng = 432.000.000đ.

       Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 08/2006/KDTM-ST ngày 29/6/2006 Tòa án nhân dân tỉnh ĐN đã quyết định: Áp dụng Điều 34, 195, 131 Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 111, 112, 118, 119, 123 và Khoản 4 Điều 126 Luật Thương mại 1997. Điều 263, 264 và Khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự 1996.

     Tuyên xử:

     1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NĐ_Công ty TNHH Thanh Thanh về đòi nợ và đòi tài sản đối với anh BĐ_Mai Văn Vĩnh, chị BĐ_Nguyễn Thanh Lan.

     Buộc anh BĐ_Mai Văn Vĩnh, chị BĐ_Nguyễn Thanh Lan phải thanh toán cho NĐ_Công ty TNHH Nước giải khát Thanh Thanh các khoản sau:

 Tiền nước 792.259.800đ. Trong đó:

 Gốc 600.444.800đ;

 Lãi 191.815.000đ.

         Vỏ chai 115.066 két (Nếu không trả được bằng hiện vật thì phải thanh toán bằng tiền

giá trị tương đương tại thời điểm thi hành án).

        2. Bác yêu cầu phản tố đòi tiền khuyến mãi, đòi tính trừ hao hụt vỏ chai và đòi bồi thường thiệt do đơn phương chấm dứt hợp đồng của anh BĐ_Mai Văn Vĩnh đối với NĐ_Công ty TNHH Thanh Thanh.

        Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 10/7/2006 bị đơn BĐ_Mai Văn Vĩnh kháng cáo xin xét xử lại.

Xét nội dung đơn kháng cáo của anh BĐ_Vĩnh và chi ̣ BĐ_Lan, căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ lời khai báo, trình bày của các bên đương sự, sau khi nghị án.

XÉT THẤY:

       NĐ_Công ty Thanh Thanh đã ký Hợp đồng đại lý đặc biệt và Hợp đồng phân phối với anh BĐ_Mai Văn Vĩnh ngày 15/12/1997 và ngày 26/10/2000.

       Hai hợp đồng kể trên đã đi vào thực hiện. Đến ngày 23/10/2003 hai bên đã thống nhất quyết toán công nợ, cụ thể:

       Anh BĐ_Vĩnh còn nợ tiền của NĐ_Công ty: 991.829.860đ và 115.576 két vỏ chai.

       Qua các lần anh BĐ_Vĩnh đã trả nợ và số tiền anh BĐ_Vĩnh được hưởng, anh BĐ_Vĩnh

đã thanh toán cho NĐ_Công ty được: 390.845.000đ và 510 két vỏ chai. Số nợ còn lại là:

 600.444.860đ;

 115.066 két vỏ chai.

        Xét án sơ thẩm đã buộc anh BĐ_Vĩnh, chi ̣ BĐ_Lan phải thanh toán số tài sản và tiền trên, cùng với lãi suất nợ quá hạn theo qui định của Ngân hàng Nhà nước là đúng pháp luật. Nhưng việc kiện trên là “đòi tài sản” chứ không phải “Đòi bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng” như án sơ thẩm xác định.

Với số liệu trên, anh BĐ_Vĩnh và chi ̣ BĐ_Lan cũng thống nhất. Nhưng anh BĐ_Vĩnh, chi ̣ BĐ_Lan khiếu nại số tiền 135.000.000đ là tiền NĐ_Công ty khuyến mãi vào thời gian tháng

5, tháng 6/1999. Anh BĐ_Vĩnh còn yêu cầu giảm số lượng vỏ chai vì là loại dễ vỡ. Phía NĐ_Công ty cho rằng chỉ thưởng khuyến mãi cho những đại lý hoàn thành kế hoạch, giao nộp

tiền đầy đủ, đúng hạn. Trường hợp anh BĐ_Vĩnh không được hưởng quyền lợi này vì không

hoàn thành kế hoạch bán hàng, giao nộp tiền về NĐ_Công ty không đầy đủ, đúng hạn.

       Xét thấy, số lượng hàng hóa của NĐ_Công ty giao, anh BĐ_Vĩnh nhận đầy đủ rõ ràng,

quyết toán công nợ cũng rõ ràng, án sơ thẩm buộc anh BĐ_Vĩnh, chi ̣ BĐ_Lan trả số nợ trên là

đúng pháp luật.

       Việc anh BĐ_Vĩnh đòi được hưởng số tiền 135.000.000đ khuyến mãi kể trên và đòi

giảm lượng két vỏ chai là không có căn cứ thực tế.

Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của anh BĐ_Vĩnh, chi ̣BĐ_Lan.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

       Áp dụng Khoản 1 Điều 275 Bộ luật Tố tụng dân sự. Giữ nguyên quyết định của án sơ

thẩm. Không chấp nhận đơn kháng cáo của anh BĐ_Vĩnh, chi ̣ BĐ_Lan. Căn cứ Điều 111; 112;

118; 119; 123; Khoản 4 Điều 126 Bộ luật Thương mại 1997. Căn cứ Điều 263; 264; Khoản 2

Điều 313 Bộ luật Dân sự.

       Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NĐ_Công ty Thanh Thanh.

       Buộc anh BĐ_Mai Văn Vĩnh và chị BĐ_Nguyễn Thanh Lan phải thanh toán cho

NĐ_Công ty Thanh Thanh:

 792.259.800đ (bảy trăm chín hai triệu, hai trăm năm mươi chín ngàn tám trăm đồng).

 (Trong đó 600.444.800đ là tiền nợ gốc; 191.815.000đ là lãi).

 Vỏ chai: 115.066 két (Một trăm mười lăm ngàn, không trăm sáu mươi sáu két).

(Nếu không có vỏ chai thì trả theo giá trị vỏ chai theo thời điểm thi hành án).

Anh BĐ_Vĩnh nộp 50.000đ án phí dân sự phúc thẩm.

       Các quyết định khác của án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực

pháp luật.

Bản án này là chung thẩm./.

 

Tên bản án

Bản án số 04/2006/KDTM-PT Đòi bồi thường thiệt hại hợp đồng do đơn phương chấm dứt hợp đồng

Số hiệu 04/2006/KDTM-PT Ngày xét xử 27/10/ 2006
Bình luận án

Tiếng Việt

English