TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH ĐN

------------------

Bản án số: 05/2014/KDTM-ST

Ngày: 18/7/2014

V/v: “Tranh chấp chia lợi nhuận công ty và đòi lại tài sản”.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

-----------------------------------

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐN

Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: 

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn A

Các Hội thẩm nhân dân:                                    

1.      Bà Trần Thị V

2.      Bà Vũ Mai T

     Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: ông Nguyễn Văn H - Cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh ĐN.

     Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh ĐN: Bà Phạm Thị K - Kiểm sát viên.

Ngày 18 tháng 7 năm 2012, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh ĐN xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 235/2011/TLST-KDTM ngày 24/11/2011 về việc “Tranh chấp chia lợi nhuận công ty và đòi lại tài sản ”.

      Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2014/QĐXX-ST ngày 05/6/2014 giữa các đương sự:

      Nguyên đơn:

      Ông NĐ_Hoàng Kiều, sinh năm: 1951.

      Hộ chiếu số: 130292537; Quốc tịch: Đài Loan.

      Địa chỉ: 56 THĐ, phường X, quận Y, thành phố HCM.

      Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hương, sinh năm: 1965.

      Địa chỉ: 56 THĐ, phường X, quận Y, thành phố HCM (theo Hợp đồng ủy quyền ngày 14/6/2012). (Có mặt)

Bị đơn:

BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Trung Thành.

Địa chỉ: Đường số 7, khu công nghiệp TP, xã TP, thành phố BH, tỉnh ĐN.

Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông Chin Su, Chức vụ: Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Lê Hồng Kiệt, sinh năm: 1968.

      Địa chỉ: 80 KPM, phường Z, quận T, thành phố HCM (Theo Giấy ủy quyền và chỉ định luật sư ngày 28/12/2011 của Tổng Giám đốc BĐ_Công ty Trung Thành). (Có mặt)

      Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

      1. Bà LQ_Nguyễn Thúy Hạnh - Chủ Doanh nghiệp tư nhânHồng Hạnh.

      Địa chỉ: Đường số 4, khu công nghiệp TP, xã TP, thành phố BH, tỉnh ĐN. (Vắng mặt)

      2. LQ_Công ty International Limited.

      Địa chỉ: Flat 20, 5B Block, FP Industrial Center, WK Road, Kowloon Bay, Hong

Kong (TQ). (Vắng mặt)

NHẬN THẤY:

        Theo đơn khởi kiện ngày 30/9/2011, đơn khởi kiện bổ sung ngày 09/4/2012, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hườngtrình bày:

        Tháng 3/2003, ông NĐ_Hoàng Kiều được ông Chin Su - Tổng Giám đốc Tập đoàn New Bonafide đồng thời là chủ của Công ty Fraval International Cord chỉ định thay mặt tập đoàn New Bonafide Machinery mở Văn phòng đại diện của Công ty Fraval International Cord tại Việt Nam, đặt trụ sở tại 87L, NDD, phường 8, quận 4, thành phố HCM.

Nhiệm vụ chính là tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường, các hoạt động xúc tiến và xây dựng các dự án hợp tác đầu tư của Công ty Fraval International Cord tại Việt Nam, đồng thời bổ nhiệm ông NĐ_Hoàng Kiều là Trưởng Văn phòng đại diện.

        Ông NĐ_Hoàng Kiều làm việc tại Văn phòng đại diện được 33 tháng nhưng chưa nhận lương. Đến ngày 05/12/2005, ông NĐ_Hoàng Kiều đã hoàn tất thủ tục xin giấy phép đầu tư và được UBND tỉnh ĐN cấp Giấy phép số 101/GP-ĐN thành lập BĐ_Công ty TNHH Trung Thành là Công ty con của Công ty New Bonafide Machinery, trụ sở tại đường số 9, khu công nghiệp TP, xã TP, huyện LT (nay là thành phố BH), tỉnh ĐN.

        Giữa ông NĐ_Hoàng Kiều và ông Chin Su là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc BĐ_Công ty Trung Thành thỏa thuận là chuyển 33 tháng lương làm Trưởng

Văn phòng đại diện cho Công ty Fraval International Cord của ông NĐ_Hoàng Kiều sang góp vào vốn đầu tư cho BĐ_Công ty TNHH Trung Thành. Toàn bộ số tiền 33 tháng lương của ông NĐ_Hoàng Kiều là 200.000 USD đã được chuyển thành 10% cổ phần của BĐ_Công ty

TNHH Trung Thành. Tính từ ngày 01/01/2006 đến nay, ông NĐ_Hoàng Kiều không được chia lợi nhuận. Ông NĐ_Hoàng Kiều khởi kiện BĐ_Công ty TNHH Trung Thành yêu cầu thanh toán lợi nhuận trên cơ sở góp vốn 10% trong thời gian 02 năm từ 30/9/2009 đến 30/9/2011 là

136.934 USD tính ra tiền Việt Nam đồng tại thời điểm thanh toán.

        Sau khi có giấy phép thành lập BĐ_Công ty TNHH Trung Thành, ngày 13/12/2005, ông

Chin Su có công văn xin ngưng hoạt động của Văn phòng đại diện kể từ ngày 01/01/2006. Trong khoảng thời gian ngưng hoạt động của Văn phòng đại diện, ngày 19/8/2005 ông NĐ_Hoàng Kiều đã ký hợp đồng thuê nhà xưởng với Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh tại địa chỉ đường số 9, khu công nghiệp TP, xã TP, huyện LT (nay là thành phố BH) để chuẩn bị cho việc đầu tư xây dựng nhà máy mới. Việc ông NĐ_Hoàng Kiều ký hợp đồng kinh tế thuê nhà xưởng với Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh với tư cách là người đại diện của BĐ_Công ty TNHH Trung Thành để chuẩn bị cho việc đầu tư xây dựng một nhà máy mới ở huyện LT, tỉnh ĐN. Số tiền đặt cọc thuê nhà xưởng là tiền của cá nhân ông NĐ_Hoàng Kiều và mục đích thuê nhà xưởng là để bổ sung chứng từ hợp lệ vào Hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư tháng 11/2005. Sau khi hoàn thành việc xin cấp giấy phép đầu tư và hoàn thiện việc thuê nhà xưởng, BĐ_Công ty TNHH Trung Thành đã tiếp quản công việc và mối quan hệ với Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh theo tinh thần của hợp đồng kinh tế mà ông NĐ_Hoàng Kiều với DNTN Hồng Hạnh đã ký kết. BĐ_Công ty TNHH Trung Thành đã không thực hiện thanh toán lại số tiền đặt cọc thuê nhà xưởng cho ông NĐ_Hoàng Kiều nên ngày 04/6/2012, ông NĐ_Hoàng Kiều có đơn yêu cầu khởi kiện bổ sung yêu cầu BĐ_Công ty TNHH TrungThành thanh toán cho ông NĐ_Hoàng Kiều số tiền đã tạm ứng để đặt cọc tiền thuê nhà xưởng của Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh là 23.122,87 USD tính ra tiền Việt Nam đồng tại thời điểm thanh toán.

       Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của ông NĐ_Hoàng Kiều rút yêu cầu chia lợi nhuận công ty nói trên và bổ sung yêu cầu công nhận ông NĐ_Hoàng Kiều là thành viên góp vốn của BĐ_Công ty TNHH Trung Thành.

        Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và các lời khai tiếp theo tại Tòa án, đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Hồng Việt làm trình bày.

        Đối với yêu cầu chia lợi nhuận của ông NĐ_Hoàng Kiều, nếu đúng như có thỏa thuận giữa ông NĐ_Hoàng Kiều với BĐ_Công ty TNHH Trung Thành ngày 01/01/2006 thì cần được coi là một dạng tranh chấp về hợp đồng dân sự chứ không phải là tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty. Mặt khác, ông NĐ_Hoàng Kiều không có tư cách thành viên công ty trong BĐ_Công ty TNHH Trung Thành. Ông NĐ_Hoàng Kiều không cung cấp được văn bản thỏa thuận nào ghi rõ việc chuyển toàn bộ 33 tháng lương làm Trưởng Văn phòng đại diện Fraval International Cord sang góp vào vốn đầu tư BĐ_Công ty TNHH Trung Thành. Tập đoàn New Bonafide Machinery và Công ty Fraval International Cord không phải là chủ đầu tư của BĐ_Công ty TNHH Trung Thành mà chủ đầu tư của BĐ_Công ty TNHH Trung Thành là LQ_Công ty International Limited, do đó ông NĐ_Hoàng Kiều không có căn cứ pháp lý nào cũng như không có tư cách thành viên để yêu cầu BĐ_Công ty TNHH Trung Thành phân chia lợi nhuận. Giấy thỏa thuận ngày 01/01/2006, không ghi chi tiết của Bên A và Bên B nên không xác định được chính xác Bên A, Bên B là ai. Chỗ ký tên của Bên B ở cuối văn bản giấy thỏa thuận có ghi tên cả hai Công ty là BĐ_Công ty TNHH Trung Thành và LQ_Công ty International Limited nhưng chỉ có một chữ ký và một con dấu ghi tên LQ_Công ty International Limited cho nên cũng không xác định được rõ ràng Bên B là ai.

        BĐ_Công ty TNHH Trung Thành là một Công ty TNHH một thành viên, không phải là

Công ty cổ phần, ông NĐ_Hoàng Kiều không là cổ đông nên yêu cầu chia 10% lợi nhuận cổ phần là không đúng. Giấy thỏa thuận giữa hai bên quy định áp dụng pháp luật của Đài Loan để làm cơ sở giải quyết nên việc này Tòa án Việt Nam giải quyết là không phù hợp. Nay BĐ_Công ty không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Hoàng Kiều về yêu cầu chia lợi nhuận, đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết yêu cầu này hoặc bác yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Hoàng Kiều.

        Đối với yêu cầu đòi lại tài sản là khoản tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh, BĐ_Công ty TNHH Trung Thành khẳng định số tiền 23.122,87 USD không phải tiền của ông NĐ_Hoàng Kiều mà do BĐ_Công ty TNHH Trung Thành quản lý chiếm hữu nên theo luật định ông NĐ_Hoàng Kiều có hai năm để khởi kiện đòi lại số tiền này. Thời hiệu khởi kiện của ông NĐ_Hoàng Kiều là 02 năm kể từ ngày đặt cọc, nhưng đến tháng 4/2012 ông NĐ_Hoàng Kiều mới khởi kiện ra Tòa án là hết thời hiệu khởi kiện. Vào thời điểm ông NĐ_Hoàng Kiều đặt cọc tiền thuê nhà xưởng ngày 19/8/2005, thì BĐ_Công ty TNHH Trung Thành chưa được thành lập nên giữa ông NĐ_Hoàng Kiều và pháp nhân BĐ_Công ty TNHH Trung Thành không thể có bất kỳ thỏa thuận nào kể cả thỏa thuận mượn tiền và ứng tiền đặt cọc thuê nhà xưởng. Qua các tài liệu ông NĐ_Hoàng Kiều cung cấp không chứng minh được ông NĐ_Hoàng Kiều và pháp nhân BĐ_Công ty TNHH Trung Thành mượn tiền và ứng tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của DNTN Hồng Hạnh. Đầu năm 2010, khi BĐ_Công ty TNHH Trung Thành có ký lại hợp đồng thuê nhà xưởng với DNTN Hồng Hạnh thì ông NĐ_Hoàng Kiều có biết nhưng cũng không có ý kiến gì. Ông NĐ_Hoàng Kiều ký hợp đồng thuê nhà xưởng với DNTN Hồng Hạnh với tư cách là cá nhân, không liên quan đến BĐ_Công ty TNHH Trung Thành. Từ ngày BĐ_Công ty TNHH Trung Thành thành lập cho đến nay, ông NĐ_Hoàng Kiều chưa bao giờ là thành viên công ty đúng theo quy định của pháp luật Việt Nam nên tranh chấp thành viên giữa ông NĐ_Hoàng Kiều với BĐ_Công ty TNHH Trung Thành để đòi lại số tiền đặt cọc là không có cơ sở. Mặt khác, ông NĐ_Hoàng Kiều đã nhận tiền từ nước ngoài/người khác chuyển để tạm ứng tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của DNTN Hồng Hạnh chứ hoàn toàn không có việc ông NĐ_Hoàng Kiều tự bỏ tiền ra đặt cọc. Nay ông NĐ_Hoàng Kiều yêu cầu BĐ_Công ty Trung Thành trả lại số tiền đặt cọc này thì BĐ_Công ty đề nghị đình chỉ giải quyết vụ án hoặc bác yêu cầu này của ông NĐ_Hoàng Kiều.

       Đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Em trình bày:

       Ngày 19/8/2005, DNTN Hồng Hạnh do bà LQ_Nguyễn Thúy Hạnh làm chủ đã ký hợp đồng thuê nhà xưởng với ông NĐ_Hoàng Kiều trong thời hạn 5 năm kể từ ngày bàn giao nhà xưởng, ông NĐ_Hoàng Kiều là người đứng tên ký hợp đồng để làm thủ tục thành lập BĐ_Công ty TNHH Trung Thành hiện nay. Trong hợp đồng ghi rõ thành lập xong BĐ_Công ty TNHH Trung Thành sẽ chuyển đổi tên bên thuê thành tên pháp nhân. Tháng 7/2008, hai bên đã ký Phụ lục hợp đồng số 01 để đổi tên Bên B (bên thuê) trong hợp đồng. Ngày 19/8/2005, DNTN Hồng Hạnh đã nhận trước của ông NĐ_Hoàng Kiều số tiền đặt cọc là 23.122,87 USD, sau khi làm thủ tục cấp giấy phép đầu tư cho BĐ_Công ty TNHH Trung Thành, Bên B đã thanh toán nốt số tiền còn lại theo hợp đồng kinh tế đã ký kết. Ngày 31/12/2009, theo đề nghị của BĐ_Công ty TNHH Trung Thành, DNTN Hồng Hạnh đã thanh lý hợp đồng cũ và ký kết hợp đồng mới. DNTN Hồng Hạnh xác định việc ông NĐ_Hoàng Kiều ký hợp đồng thuê nhà xưởng với DNTN Hồng Hạnh năm 2005 là để hợp thức hóa việc xin cấp giấy phép thành lập BĐ_Công ty TNHH Trung Thành.

XÉT THẤY:

      Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

      Tòa án đã hai lần thực hiện việc ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng cho LQ_Công ty

 International Limited nhưng phía LQ_Công ty International Limited vẫn không gửi ý kiến cho Tòa án và cũng không có mặt theo thông báo của Tòa án.

Vì vậy, căn cứ hướng dẫn tại Thông tư số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày

15/9/2011 hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của

Luật Tương trợ Tư pháp, Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt LQ_Công ty International Limited.

        Đối với bà LQ_Nguyễn Thúy Hạnh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành phiên tòa sơ thẩm xét xử vắng mặt đương sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 199 và Điều 202 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung tranh chấp:

        − Đối với yêu cầu chia lợi nhuận của ông NĐ_Hoàng Kiều:

        Vào ngày 01/01/2006, giữa ông NĐ_Hoàng Kiều và ông Chin Su là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc BĐ_Công ty TNHH Trung Thành có ký Giấy thỏa thuận (BL 96, 97, 98), theo đó ông NĐ_Hoàng Kiều có quyền yêu cầu phân chia lợi nhuận cổ đông tương đương với tỷ lệ phần trăm quyền cổ phần có trong BĐ_Công ty TNHH Trung Thành là 10%. Tại Văn bản BĐ_Công ty TNHH Trung Thành gửi ông NĐ_Hoàng Kiều ngày 16/9/2008 do ông Wu Cheng - Phó Tổng Giám đốc - người được ông Chin Su ủy quyền ký (BL 101), BĐ_Công ty TNHH Trung Thành cũng đã xác định phần vốn góp 10% của ông NĐ_Hoàng Kiều vào BĐ_Công ty TNHH Trung Thành trước đây, BĐ_Công ty đang tính toán để chia lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn của ông trong thời gian sớm nhất.

        Như vậy, trên thực tế ông NĐ_Hoàng Kiều đã có phần vốn góp 10% trong BĐ_Công ty TNHH Trung Thành, việc ông NĐ_Hoàng Kiều chưa được BĐ_Công ty cấp Giấy chứng nhận phần vốn góp và đăng ký thành viên công ty, trách nhiệm thuộc về phía BĐ_Công ty TNHH Trung Thành.

        Kể từ ngày 01/01/2006 đến nay, ông NĐ_Hoàng Kiều chưa được BĐ_Công ty

TNHH Trung Thành chia lợi nhuận. Vì vậy, việc ông NĐ_Hoàng Kiều khởi kiện yêu cầu BĐ_Công ty TNHH Trung Thành chia lợi nhuận cho ông là có cơ sở để xem xét. Tuy nhiên, tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của ông NĐ_Hoàng Kiều đã rút yêu cầu này nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu chia lợi nhuận công ty của ông NĐ_Hoàng Kiều.

        Cũng tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của ông NĐ_Hoàng Kiều yêu cầu Tòa án công nhận ông NĐ_Hoàng Kiều là thành viên góp vốn của BĐ_Công ty TNHH Trung Thành. Yêu cầu này là vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. ông NĐ_Hoàng Kiều chưa làm thủ tục khởi kiện bổ sung yêu cầu này nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét.

       − Đối với yêu cầu của ông NĐ_Hoàng Kiều đòi lại tài sản là khoản tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh, xét thấy:

       Ông NĐ_Hoàng Kiều khởi kiện yêu cầu BĐ_Công ty TNHH Trung Thành thanh toán cho ông số tiền ông đã tạm ứng để đặt cọc tiền thuê nhà xưởng của Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh là 23.122,87 USD cho BĐ_Công ty TNHH Trung Thành mà ông cho rằng BĐ_Công ty còn nợ chưa thanh toán lại cho ông. Đây là tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự nên theo hướng dẫn tại Điểm b Khoản 3 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trường hợp này không áp dụng thời hiệu khởi kiện.

        Để có cơ sở thành lập BĐ_Công ty TNHH Trung Thành, về mặt pháp lý phải hoàn tất các thủ tục về việc xin cấp giấy phép đầu tư, BĐ_Công ty TNHH Trung Thành phải có nơi đặt trụ sở doanh nghiệp. Việc ông NĐ_Hoàng Kiều ký hợp đồng kinh tế thuê nhà xưởng với Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh là thực tế và mục đích thuê là để bổ sung chứng từ hợp lệ vào Hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư tháng 11/2005 của BĐ_Công ty TNHH Trung Thành. Ngày 19/8/2005, ông NĐ_Hoàng Kiều đã đặt cọc cho Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh số tiền là 23.122,87 USD, việc này có giấy biên nhận và đã được chính DNTN Hồng Hạnh thừa nhận. Theo ông NĐ_Hoàng Kiều, số tiền đặt cọc này là tiền ông tự bỏ ra để đặt cọc cho DNTN Hồng Hạnh, còn phía BĐ_Công ty TNHH Trung Thành thì cho rằng số tiền đặt cọc ông NĐ_Hoàng Kiều đã nhận tiền từ nước ngoài/người khác chuyển để tạm ứng tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của DNTN Hồng Hạnh chứ hoàn toàn không có việc ông NĐ_Hoàng Kiều tự bỏ tiền ra đặt cọc. BĐ_Công ty TNHH Trung Thành cung cấp Giấy yêu cầu chuyển tiền bằng điện ngày 19/8/2005 của Tập đoàn quốc tế FRAVAL vào tài khoản của ông NĐ_Hoàng Kiều số tiền 25.000,00 USD và cho rằng đây là khoản tiền tạm ứng tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của DNTN Hồng Hạnh. Tuy nhiên, Giấy yêu cầu chuyển tiền trên không thể hiện khoản tiền 25.000,00 USD chuyển cho ông NĐ_Hoàng Kiều là khoản tiền gì, các bản photo email BĐ_Công ty TNHH Trung Thành cung cấp không được xem là chứng cứ hợp lệ để chứng minh; phía ông NĐ_Hoàng Kiều không thừa nhận đây là khoản tiền tạm ứng tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của DNTN Hồng Hạnh mà cho rằng khoản tiền 25.000,00 USD này là tiền thanh toán tài chính giữa Fraval International Corp. với ông NĐ_Hoàng Kiều cho những khoản chi trong thời gian ông NĐ_Hoàng Kiều là Trưởng Văn phòng đại diện thường trú của Fraval International Corp. tại thành phố HCM, phía ông NĐ_Hoàng Kiều cũng đã cung cấp các chứng từ để chứng minh hoàn toàn phù hợp với số tiền trên. Như vậy, lời trình bày của ông NĐ_Hoàng Kiều là có cơ sở.

        Sau khi hoàn thành việc xin cấp giấy phép đầu tư và hoàn thiện việc thuê nhà xưởng,

BĐ_Công ty TNHH Trung Thành đã tiếp quản công việc và mối quan hệ với Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh theo tinh thần của hợp đồng kinh tế mà ông NĐ_Hoàng Kiều với DNTN

Hồng Hạnh đã ký kết. BĐ_Công ty TNHH Trung Thành đã không thực hiện thanh toán lại số tiền đặt cọc thuê nhà xưởng cho ông NĐ_Hoàng Kiều. Mặt khác, chính DNTN Hồng Hạnh cũng khẳng định việc ông NĐ_Hoàng Kiều ký hợp đồng thuê nhà xưởng để làm hồ sơ xin thành lập BĐ_Công ty TNHH Trung Thành. Vì vậy, yêu cầu của ông NĐ_Hoàng Kiều về việc buộc BĐ_Công ty TNHH Trung Thành phải thanh toán cho ông số tiền đặt cọc 23.122,87 USD là có cơ sở chấp nhận.

        Tại thời điểm xét xử sơ thẩm, tỷ giá 1 USD = 21.180 VND. Do đó, cần buộc

BĐ_Công ty TNHH Trung Thành phải thanh toán cho ông NĐ_Hoàng Kiều số tiền là:

23.122,87 USD x 21.180 VND = 489.742.386 đồng.

        Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn yêu cầu BĐ_Công ty TNHH Trung Thành phải trả tiền lãi do chậm thanh toán từ tháng 8/2005 đến ngày xét xử sơ thẩm, yêu cầu này vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu, nguyên đơn chưa làm thủ tục khởi kiện bổ sung nên không có cơ sở xem xét.

Về án phí:

BĐ_Công ty TNHH Trung Thành phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 23.589.695 đồng.

Hoàn trả lại cho ông NĐ_Hoàng Kiều số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

       Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh ĐN phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

     Căn cứ các Điều 25, 29, 34, 131, 218 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 256, Điều 280, Điều 281 Bộ luật Dân sự; Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án;

     Tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Hoàng Kiều về việc buộc BĐ_Công ty TNHH Trung Thành chia lợi nhuận công ty.

       2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Hoàng Kiều về việc đòi lại tài sản là khoản tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của Doanh nghiệp tư nhân Hồng Hạnh.

       Buộc BĐ_Công ty TNHH Trung Thành phải thanh toán cho ông NĐ_Hoàng Kiều số tiền 489.742.386 đồng (Bốn trăm tám mươi chín triệu bảy trăm bốn mươi hai nghìn ba trăm tám mươi sáu đồng).

       3. Về án phí:

       BĐ_Công ty TNHH Trung Thành phải nộp 23.589.695 đồng (Hai mươi ba triệu năm trăm tám mươi chín nghìn sáu trăm chín mươi lăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

       Hoàn trả cho ông NĐ_Hoàng Kiều số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 44.738.338đ (Bốn mươi bốn triệu bảy trăm ba mươi tám nghìn ba trăm ba mươi tám đồng) theo Biên lai thu số 008443 ngày 04/11/2011 và 11.632.062đ (Mười một triệu sáu trăm ba mươi hai nghìn không trăm sáu mươi hai đồng) theo Biên lai thu số 04635 ngày 01/6/2012 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh ĐN.

       Kể từ ngày ông NĐ_Hoàng Kiều có đơn yêu cầu thi hành án, nếu BĐ_Công ty TNHH Trung Thành không thanh toán số tiền nêu trên thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

       Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Riêng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thúy Hạnh và LQ_Công ty International Limited được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

       Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

 

 

 

Tên bản án

Bản án số 05/2014/KDTM-ST Tranh chấp chia lợi nhuận công ty và đòi lại tài sản

Số hiệu 05/2014/KDTM-ST Ngày xét xử 18/7/2014
Bình luận án

Tiếng Việt

English