TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TÒA PHÚC THẨM THÀNH PHỐ HCM

----------------------

Bản số: 06/2011/KDTM-PT

Ngày: 13/6/2011

V/v: “Tranh chấp Công ty với thành viên Công ty - Đòi tài sản”.

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

-------------------------------

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 
 

TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TẠI THÀNH PHỐ HCM

Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

 

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Công B

Các thẩm phán:

1.             Ông Võ Văn H

2.             Đinh Thị N

       Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Hữu N - Cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố HCM.

       Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn T - Kiểm sát viên.

Trong ngày 13 tháng 6 năm 2011 tại Trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 39/2011/KDTM-PT ngày 17 tháng 3 năm 2011 về “Tranh chấp Công ty với thành viên công ty - Đòi tài sản”.

       Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm SQ 17/2011/KDTM-ST ngày 18 tháng 01 năm 2011 của Tòa án nhân dân tỉnh AG bị kháng cáo.

       Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 117/2011/QĐ - KDTM ngày 04 tháng 4 năm 2011 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

      NĐ_Công ty TNHH Thương mại Hiện Đại.

      Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: ông Nguyễn Văn Thao, chức vụ: Giám đốc (có mặt).

      Địa chỉ: 22 TKH, khóm CL 7, phường CPB, thị xã CĐ, tỉnh AG.

      Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư LTT - Đoàn Luật sư tỉnh AG (có mặt).

Bị đơn:

     Ông BĐ_Hà Văn Hương, sinh năm 1978 (có mặt)

     Địa chỉ: 111/28 NGT, phường AH, thành phố RG, tỉnh KG.

     Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư TTT - Đoàn Luật sư tỉnh KG (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà LQ_Nguyễn Hoàng Đông, sinh năm 1980 (có mặt).

Địa chỉ: 24/24 NTT, phường AH, thành phố RG, tỉnh KG.

NHẬN THẤY:

Nguyên đơn do ông Nguyễn Văn Thao đại diện theo pháp luật trình bày:

Vào năm 2009, ông xin thành lập Công ty TNHH Thương mại Hiện Đại (gọi tắt là NĐ_Công ty) với Sở kế hoạch đầu tư tỉnh AG và được cấp phép vào ngày 07/04/2009, theo bản điều lệ đăng ký với Sở kế hoạch đầu tư tỉnh AG, ông và ông BĐ_Hà Văn Hương là hai thành viên của NĐ_Công ty mỗi người cùng góp vốn 500.000.000 đồng.

        Tháng 06/2009 thì có mở thêm 01 chi nhánh tại 155 NGT, phường AH, thành phố RG, tỉnh KG, do ông BĐ_Hương là thành viên thứ hai của NĐ_Công ty giữ chức vụ Phó giám đốc Công ty kiêm Giám đốc chi nhánh tại KG.

        Đến ngày 15/7/2009, do thiếu tiền nhận hàng, ông đưa NĐ_Công ty mượn tạm thêm 58.000.000 đồng, ông BĐ_Hương đưa góp vào NĐ_Công ty 97.000.000 đồng. Cũng trong tháng 7, ông BĐ_Hương có đề nghị NĐ_Công ty vay vốn để mua xe tải giao hàng trị giá 266.000.000 đồng, NĐ_Công ty có vay 170.000.000 đồng của Ngân hàng A thị xã CĐ, phần còn lại do NĐ_Công ty trả tiền mặt, xe tải mang biển số 67M-1180 được chuyển qua chi nhánh KG sử dụng vào tháng 3/2010.

        Trong thời gian NĐ_Công ty hoạt động, ông có mua sắm một số tài sản phục vụ cho hoạt động của NĐ_Công ty tổng cộng 60.773.000đ;

        Cũng trong tháng 7/2009, do thiếu vốn hoạt động nên ông dùng căn nhà riêng tại số 222 THĐ, phường CP, thị xã CĐ, tỉnh AG, cho NĐ_Công ty mượn để thế chấp vay Ngân hàng B thị xã CĐ số tiền 1.500.000.000 đồng có sự đồng ý của ông BĐ_Hương cùng chịu trách nhiệm chung với số tiền vay này.

Trong quá trình hoạt động từ tháng 6/2009 đến tháng 2/2010, NĐ_Công ty có chuyển tiền cho chi nhánh KG hoạt động, cụ thể:

Chuyển qua tài khoản cá nhân của ông BĐ_Hương: 480.000.000 đồng.

Chuyển nhận hàng: 950.185.642 đồng trong số tiền này có các lần đưa tiền mặt

cho ông BĐ_Hương tại KG, 01 lần 55.000.000 đồng và 01 lần 68.072.062 đồng.

       Tổng số tiền ông BĐ_Hương đã nhận là: 1.430.185.642 đồng. Ông BĐ_Hương có chuyển tiền về NĐ_Công ty tính đến tháng 01 năm 2010, tổng số tiền là 352.997.000 đồng, còn lại 1.077.188.642 đồng sau đó không chuyển về nữa, ông BĐ_Hương nói là giữ lại để nhận hàng nhưng đến tháng 3/2010 thì ông BĐ_Hương nói là không còn tiền.

       Trong quá trình chi nhánh KG hoạt động ông đã nhiều lần gọi điện thoại yêu cầu ông BĐ_Hương báo cáo về NĐ_Công ty, ông BĐ_Hương cứ hẹn dần cho đến khi sự việc xảy ra thì ông BĐ_Hương cũng không có báo cáo. Đến ngày 01/6/2010 ông có gửi thông báo yêu cầu ông BĐ_Hương làm rõ vấn đề nhưng ông BĐ_Hương vẫn không trả lời. Ngày 21/6/2010 ông có gửi thông báo lần 2 yêu cầu ông BĐ_Hương làm rõ vấn đề nhưng ông BĐ_Hương vẫn không trả lời.

       Do đó NĐ_Công ty khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Hương giải trình về số tiền 1.077.188.642 đồng NĐ_Công ty đã đầu tư cho ông BĐ_Hương hoạt động tại chi nhánh KG.

Nếu không giải trình được thì phải chịu trách nhiệm hoàn trả lại số tiền 1.077.188.642 đồng cho NĐ_Công ty. Yêu cầu ông BĐ_Hương giao trả xe tải mang biển số 67M-1180 mà NĐ_Công ty giao cho chi nhánh sử dụng để thanh lý nợ Ngân hàng A.

       Bị đơn ông BĐ_Hà Văn Hương trình bày:

       Về số tiền mà NĐ_Công ty chuyển qua tài khoản cá nhân của ông 480.000.000 đồng, ông thừa nhận có nhận nhưng đã trả, chỉ còn nợ lại ông Thao 230.000.000 đồng. Thể hiện theo sổ ghi chép của ông Thao cung cấp, ngày 11/10/2009 ông đã ký nhận chỉ còn nợ lại 230.000.000 đồng.

       Trong số tiền 950.185.642 đồng chuyển nhận hàng của NĐ_Công ty Hiện Đạiccho chi nhánh tại KG thì ông thừa nhận có nhận đối với những phần có ủy nhiệm chi, hóa đơn và chứng cứ theo như ông Thao cung cấp. Còn lại một số phần có ủy nhiệm chi nhưng chưa có hóa đơn ông cần kiểm tra lại và sẽ có ý kiến sau với NĐ_Công ty. Riêng số tiền 55.000.000 đồng, 68.072.062 đồng đưa tiền mặt để nhận hàng như ông Thao trình bày ông thừa nhận có nhận để mua hàng. Trong số tiền 950.185.642 đồng đã nhận, ông chuyển trả cho NĐ_Công ty được 352.997.000 đồng.

       Về việc NĐ_Công ty yêu cầu ông giải trình về số tiền 1.077.188.642 đồng, ông có yêu cầu ông Thao có quyết định của Hội đồng thành viên công ty về việc yêu cầu giải trình ông sẽ giải trình trước NĐ_Công ty. Ông BĐ_Hương yêu cầu phía NĐ_Công ty Hiện Đại rút lại đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa đối với tài sản của ông.

        Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà LQ_Nguyễn Hoàng Đông trình bày:

        Quan hệ giao dịch giữa ông BĐ_Hương và ông Thao bà không có tham gia nên không liên quan đến bà. Việc ông Thao yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản thuộc đồng sở hữu của bà và ông BĐ_Hương thì bà không đồng ý, vì ảnh hưởng đến uy tín và danh dự của bà. Nếu sau này có thiệt hại từ việc phong tỏa tài sản thì ông Thao phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.

       Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Thao đại diện cho NĐ_Công ty Hiện Đại bổ sung thêm yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ông BĐ_Hương phải chịu lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng mà

NĐ_Công ty Hiện Đạivay ngân hàng đối với số tiền nhận của NĐ_Công ty từ thời điểm tháng 7/2009 đến hiện tại vì ông BĐ_Hương gây thiệt hại cho NĐ_Công ty.

Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 17/2011/KDTM-ST ngày 18 tháng 01 năm 2011 của Tòa án nhân dân tỉnh AG đã quyết định:

      Áp dụng Khoản 3 Điều 29, Điểm a Khoản 1 Điều 34, Điều 131, Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004; Điều 255, Điều 256 Bộ luật dân sự;

      Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQHngày 27/2/2009 về án phí, lệ phí.

      Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NĐ_Công ty TNHH Thương mại Hiện Đại đối với ông BĐ_Hà Văn Hương.

       Buộc ông BĐ_Hà Văn Hương có nghĩa vụ hoàn trả cho NĐ_Công ty TNHH Thương mại Hiện Đại số tiền 1.077.188.642 đồng (Một tỷ, không trăm bảy mươi bảy triệu một trăm tám mươi tám ngàn sáu trăm bốn mươi hai đồng)

       Duy trì các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2010/QĐ - BPKCTT ngày 25/8/2010 và 02/2010/QĐ - BPKCTT ngày 16/12/2010 đối với tài sản của ông BĐ_Hà Văn Hương cho đến khi có quyết định mới.

       Duy trì các quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 01/2010/ QĐ - TA ngày 23/8/2010, và 02/2010 QĐ - TA ngày 16/12/2010 đối với tài sản bảo đảm của ông Nguyễn Thiên Thảo cho đến khi có quyết định mới.

       Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

      Ngày 30/01/2011, bị đơn ông BĐ_Hà Văn Hương kháng cáo yêu cầu hủy án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án và hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

       Ngày 30/01/2011, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Hoàng Đông kháng cáo yêu cầu hủy các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

       Ngày 14/02/2011, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh AG kháng nghị đề nghị hủy án sơ thẩm giao hồ sơ về Tòa sơ thẩm giải quyết lại.

XÉT THẤY:

       Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giữ nguyên kháng cáo yêu cầu hủy bản án và đình chỉ vụ án; Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên kháng nghị yêu cầu hủy án và giao hồ sơ vụ án về Tòa sơ thẩm giải quyết lại; Các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

        Xét kháng cáo của các đương sự, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh AG, trên cơ sở xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thấy rằng: Vào tháng 4/2009 NĐ_Công ty TNHH Thương mại Hiện Đại (có 2 thành viên) được thành lập theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 07/4/2009 của Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh AG, do ông Nguyễn Văn Thao làm Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc Công ty. Ngày 01/6/2009 NĐ_Công ty mở thêm Chi nhánh (hạch toán phụ thuộc) có trụ sở đặt tại thành phố RG, tỉnh KG, bổ nhiệm ông BĐ_Hà Văn Hương (là thành viên thứ 2) làm Phó Giám đốc Công ty kiêm Giám đốc Chi nhánh.

        Quá trình hoạt động từ tháng 6/2009 đến 02/2010 NĐ_Công ty có chuyển qua tài khoản của ông BĐ_Hương nhiều lần bằng 480.000.000 đồng, và chuyển tiền nhận hàng hóa của Chi nhánh nhiều đợt bằng 950.185.642 đồng. Tổng cộng 2 khoản bằng 1.430.185.642 đồng, mục đích để Chi nhánh hoạt động kinh doanh. Từ tháng 11/2009 đến 01/2010 Chi nhánh (do ông BĐ_Hương) có chuyển tiền về cho NĐ_Công ty tổng cộng 352.997.000 đồng, còn chênh lệch 1.077.188.642 đồng. Nhiều lần ông Thao (Giám đốc Công ty) yêu cầu bằng miệng và 2 lần gửi thông báo (ngày 01/6/2010 và 22/6/2010) yêu cầu ông BĐ_Hương báo cáo tình hình hoạt động và tài chính của Chi nhánh, nếu lỗ hoặc thất thoát hàng hóa cũng phải giải trình, trong thời hạn 15 ngày nếu không trả lời xem như thừa nhận vốn tiền, hàng vẫn còn. Cả 2 thông báo trên ông BĐ_Hương đều không trả lời, nên ngày 22/7/2010 ông Thao khỏi kiện yêu cầu Tòa buộc ông BĐ_Hà Văn Hương giải trình về số tiền 1.077.188.642 đồng, nếu không giải trình thì buộc ông BĐ_Hương phải trả lại cho NĐ_Công ty số tiền trên.

        Xét thấy, sau khi được thành lập và hoạt động, giữa NĐ_Công ty và Chi nhánh có chuyển tiền, tiền hàng qua lại, ông BĐ_Hương (tư cách là Giám đốc Chi nhánh) không thực hiện việc báo cáo tình hình tài chính và việc kinh doanh của Chi nhánh cho NĐ_Công ty (cả khi Giám đốc công ty yêu cầu) là không đúng Điều lệ hoạt động của NĐ_Công ty đã đăng ký, tuy nhiên vì Chi nhánh là đơn vị hoạt động phụ thuộc NĐ_Công ty nhưng NĐ_Công ty chưa thực hiện kiểm tra, lập biên bản xử lý cụ thể tiền, hàng của Chi nhánh theo chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thành viên và Chủ tịch Hội đồng thành viên mà Điều lệ của Công ty và theo Luật Doanh nghiệp quy định, nên chưa có căn cứ xác định trách nhiệm và nghĩa vụ về tài chính của Chi nhánh và cá nhân Giám đốc Chi nhánh đối với số tiền, hàng mà NĐ_Công ty đã chuyển cho Chi nhánh hoạt động kinh doanh, ông Thao Giám đốc Công ty đã khởi kiện cá nhân ông BĐ_Hương yêu cầu trả tiền là chưa đủ cơ sở. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án cấp sơ thẩm cũng chưa buộc hai bên đối chiếu cụ thể hoặc cho thẩm tra các chứng cứ hai bên cung cấp, để trên cơ sở đó xác định tiền, hàng hóa thực tế mua bán ra sao, còn hay hết, việc sử dụng đồng vốn NĐ_Công ty của ông BĐ_Hương ở Chi nhánh như thế nào, có đúng nhiệm vụ quyền hạn và hợp lệ không, tiền có bị ông BĐ_Hương chiếm dụng và trách nhiệm cá nhân ông BĐ_Hương mức độ nào ? Trường hợp ông BĐ_Hương (Giám đốc Chi nhánh) cố ý né tránh không chứng minh hoặc chứng minh không được về số tiền, hàng trên cũng phải lập biên bản cụ thể. Từ đó mới có căn cứ xác định mối quan hệ pháp luật tranh chấp là gì và trách nhiệm cá nhân của ông BĐ_Hương. Tòa sơ thẩm chỉ căn cứ việc ông BĐ_Hương không báo cáo giải trình tình hình tài chính cho NĐ_Công ty về số tiền trên mà buộc ông BĐ_Hương có trách nhiệm trả cho NĐ_Công ty 1.077.188.642 đồng là chưa đủ cơ sở.

        Kèm theo đơn kháng cáo và trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm, các bên có cung cấp một số tài liệu, chứng cứ (chứng từ, biên bản kiểm tra...), nhưng các tài liệu trên chưa được thẩm tra, không được các bên thừa nhận đầy đủ nên cũng chưa đủ cơ sở để xem xét ở cấp phúc thẩm. Những thiếu sót trên, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Nên cần hủy bản án sơ thẩm để giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

       Xét yêu cầu đình chỉ vụ án của bị đơn và ý kiến Luật sư bảo vệ cho bị đơn thấy rằng:

Tranh chấp trên giữa NĐ_Công ty TNHH Thương mại Hiện Đại với ông BĐ_Hương có liên quan đến hoạt động của NĐ_Công ty và Chi nhánh; ông BĐ_Hương không báo cáo, NĐ_Công ty chỉ chưa kiểm tra xử lý cụ thể bằng văn bản, ý kiến Luật sư và bị đơn cho rằng đây là việc nội bộ của NĐ_Công ty và yêu cầu đình chỉ vụ án là không đủ căn cứ chấp nhận.Đối với kháng cáo của bà LQ_Nguyễn Hoàng Đông , thấy rằng: Hồ sơ không có căn cứ thể hiện bà LQ_Đông có tham gia hoạt động của NĐ_Công ty hoặc Chi nhánh, chưa được cấp sơ thẩm thẩm tra xác minh rõ; Tòa sơ thẩm Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bằng hình thức kê biên tài sản của ông BĐ_Hương theo yêu cầu của một bên đương sự là không sai, nhưng bao gồm cả phần tài sản của bà LQ_Đông là chưa đủ cơ sở. Tuy nhiên, do hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án nên yêu cầu của bà LQ_Đông sẽ được xem xét ở cấp sơ thẩm.

Căn cứ vào Khoản 3 Điều 275; Điều 277 của Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH:

      Hủy bản án sơ thẩm số 17/2011/KDTM-ST ngày 18/01/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh AG về việc giải quyết tranh chấp giữa NĐ_Công ty TNHH Thương mại Hiện Đại với ông BĐ_Hà Văn Hương và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh AG giải quyết lại vụ án.

       Về án phí: Hoàn trả tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho ông BĐ_Hà Văn Hương và bà LQ_Nguyễn Hoàng Đông mỗi người 200.000đ (theo biên lai thu tiền số 002290, 002291 ngày 18/2/2011 của Cục thi hành án dân sự tỉnh AG).

       Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Tên bản án

Bản số 06/2011/KDTM-PT Tranh chấp Công ty với thành viên Công ty - Đòi tài sản

Số hiệu 06/2011/KDTM-PT Ngày xét xử 13/6/2011
Bình luận án

Tiếng Việt

English