TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
 

Bản án số: 07/2014/HC-ST

Ngày: 25/11/2014

V/v “Khiếu kiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thương mại”.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

 

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:

1.    Ông Đặng Huy Châu - Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa.

2.    Bà Bùi Thị Nguyễn - Hội thẩm nhân dân;

3.    Bà Nguyễn Thị Cẩm Hà - Hội thẩm nhân dân.

Bà Nguyễn Thanh Hằng – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh An Giang - Thư ký phiên toà.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên tòa: Ông Đinh Quang Kích - Kiểm sát viên.

Ngày 25 tháng 11 năm 2014, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2014/TLST-HC ngày 15 tháng 9 năm 2014 về việc “Khiếu kiện Quyết định xử phạt vi phạt hành chính trong lĩnh vực thương mại”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 03/2014/QĐXXST-HC ngày 27 tháng 10 năm 2014, giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

Ông Trần Văn H,

Địa chỉ: Số 36, tổ 21, ấp Vĩnh Hội, xã Vĩnh Hội Đông, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: ông Trần Ngọc Phước, đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 12/9/2014).

Địa chỉ: Số 370 , tổ 11, ấp An Thuận, xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật sư Trần Văn Sáu – Văn phòng Luật sư Trần Văn Sáu thuộc Đoàn Luật sư tỉnh An Giang bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện ông Trần Văn H.

BỊ ĐƠN:

 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A.

Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Lê Văn N – Phó Chủ tịch Ủy  ban  nhân  dân  tỉnh  A  đại  diện  theo  ủy  quyền  (Văn  bản  ủy  quyền  ngày 10/11/2014).

Các đương sự có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 30/6/2014, Đội Quản lý Thị trường Số 2, Chi cục Quản lý Thị trường tỉnh A kiểm tra xe ô tô tải mang biển số 95T – 1347 do ông Phan Hoàng Hiếu điều khiển phát hiện đang vận chuyển 14.040 kg me muối không có hóa đơn chứng từ.

Cùng ngày, Đội Quản Lý thị trường Số 2 kiểm tra tại ấp An Thạnh, thị trấn An Phú, huyện An Phú phát hiện 3.420 kg me muối. Có mặt tại thời điểm kiểm tra, ông Dương Văn Sen, sinh năm 1972, cư trú: Ấp Vĩnh Hội, xã Vĩnh Hội Đông, huyện An Phú xuất trình Hóa đơn bán hàng số 0068581 ngày 30/6/2014 do Cơ sở Toàn Thịnh bán cho ông Nguyễn Đình Thuần ở Cần Thơ và 03 bảng kê thu mua hàng hóa, dịch vụ mua vào không có hóa đơn của Cơ sở nông sản Toàn Thịnh.

Toàn bộ 17.460 kg me muối nêu trên do ông Trần Văn H, sinh năm 1963, chủ Cơ sở nông sản Toàn Thịnh làm chủ. Ông H ủy quyền cho ông Dương Văn Dũng điều hành hoạt động kinh doanh của cơ sở. Ông Dương Văn Sen là anh ruột ông Dũng phụ giúp điều hành việc vận chuyển hàng hóa.

Trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 6 năm 2014, ông Dũng thu mua me muối trôi nổi của những người dân mang đến Cơ sở nông sản Toàn Thịnh bán. Khi mua, ông Dũng có lập 03 bảng kê thu mua hàng hóa, dịch vụ mua vào không có hóa đơn của Cơ sở nông sản Toàn Thịnh.

Ngày 30/6/2014, ông Dũng xuất bán số me muối nêu trên và đang trên đường vận chuyển thì bị Đội Quản lý Thị trường số 2 kiểm tra, tạm giữ.

Theo kết quả xác minh của Đội Quản lý Thị trường Số 2 đối với 03 bảng kê thu mua hàng hóa, dịch vụ mua vào không có hóa đơn của Cơ sở nông sản Toàn Thịnh;  xác minh những người bán me muối không có tại địa phương.

Làm việc với Đội Quản lý Thị trường Số 2, ông Dũng thừa nhận hành vi kinh doanh me muối không rõ nguồn gốc, xuất xứ là vi phạm pháp luật.

Ngày 11/7/2014, Đội Quản lý Thị trường Số 2 tiến hành lập Biên bản vi phạm hành chính nhưng ông Dũng không đồng ý ký tên vào Biên bản do sợ bị tịch thu hàng hóa.

Ngày 14/7/2014, Chi cục Quản lý Thị trường An Giang có Công văn số:

492/QLTT trưng cầu ý kiến chuyên môn của Chi cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang đối với mặt hàng me muối có phải là thực phẩm hay không.

Ngày 14/7/2014, Chi cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản có Công văn số 68/QLCL-NLTS xác định mặt hàng me muối là thực phẩm. 

Ngày 06/8/2014, Chi cục Quản lý Thị trường An Giang có Công văn số: 540/ĐN-QLTT đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Trần Văn H.

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A giao quyền đã ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 107/QĐ-XPVPHC ngày  07/8/2014  đối  với  ông  Trần  Văn  H  (viết  tắt  Quyết  định  số  107/QĐ- XPVPHC). Nội dung xử phạt:

- Xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Văn H, phạt tiền: 70.000.000 (Bảy mươi triệu đồng) đồng hành vi kinh doanh hành hóa (me muối) không rõ nguồn gốc, xuất xứ (hàng hóa vi phạm là thực phẩm có trị giá là 104.760.000 đồng), quy định tại điểm c, khoản 1, khoản 12, điểm a khoản 13 Điều 21 của Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (viết tắt Nghị định 185/2013/NĐ- CP);

Tình tiết tăng nặng/giảm nhẹ: Không.

- Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu 17.460 (Mười bảy ngàn bốn trăm sáu mươi) kg me muối, quy định tại khoản 3 Điều 4 và điểm a khoản 14 Điều 21 của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP;

Ông Hội không khiếu nại Quyết định này.

Ngày 21/8/2014, ông Trần Văn H khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, yêu cầu hủy Quyết định số 107/QĐ-XPVPHC. Vì số me muối nêu trên, ông mua của những người Việt Nam tại đất nước Việt Nam là đã chứng minh xuất xứ hàng hóa của Việt Nam.

Tại Công văn số 1069/UBND-NC ngày 29/9/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A vẫn xác định Quyết định số 107/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Trần Văn H là đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa,

+ Luật sư Trần Văn Sáu bảo vệ quyền lợi cho ông Hội, ông Trần Ngọc Phước được ông Hội ủy quyền trình bày: Hàng hóa bị bắt giữ là me chín đã bóc vỏ không có hàm lượng muối là hàng nông sản, không phải chứng minh xuất xứ hàng hóa theo quy định tại Điều 19 của Nghị định 19/2006 của Chính phủ; hàng hóa bị bắt giữ có trọng lượng 16.648 kg trị giá 99.888.000đ chứ không phải 17.460 kg trị giá 104.760.000 đồng như trong Quyết định xử phạt. Do hàng hóa trị giá chưa đến 100.000.000đ, nên không thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh. Đề nghị hủy Quyết định số 107/QĐ-XPVPHC.

+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh vẫn giữ y Quyết định số 107/QĐ-XPVPHC.

+ Ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang: Về việc chấp hành thủ tục tố tụng hành chính của Hội đồng xét xử và các đương sự không phát hiện vi phạm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phên tòa; Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng.

 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về thẩm quyền của Tòa án, do đối tượng khởi kiện là Quyết định số 107/QĐ-XPVPHC do Chủ tịch Ủy ban nhân   dân tỉnh An Giang ban hành, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án tỉnh theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính.

[2] Về thời hiệu khởi kiện: Quyết định số 107/QĐ-XPVPHC được ban hành ngày 07/8/2014, thì ngày 21/8/2014, ông Trần Văn H. khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án, là trong thời hiệu một năm được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 104 của Luật Tố tụng hành chính.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã giải thích cho ông Trần Văn H. biết quyền được yêu cầu đối thoại với người bị kiện, nhưng ông Hội có yêu cầu không tiến hành đối thoại, thể hiện qua Biên bản ghi nhận ý kiến ngày 27/10/2014, nên Tòa án không tổ chức đối thoại theo quy định tại Điều 12 và khoản 4 Điều 36 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.

[4] Xem xét tính hợp pháp của Quyết định số 107/QĐ-XPVPHC:

[5] Về thời hiệu  và thời hạn  xử phạt:  Biên  bản vi  phạm hành chính  số 0003081 được lập ngày 11/7/2014, đến ngày 07/8/2014, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A ban hành Quyết định xử phạt là 27 ngày. Nhận thấy, việc vi phạm của ông Trần Văn H. có khung xử phạt trên 15 triệu đồng thuộc trường hợp người vi phạm có quyền yêu cầu giải trình theo quy định tại khoản 1 Điều 61 của Luật Xử lý vi phạm hành chính; mặt khác, trong hồ sơ có nhiều tình tiết phức tạp cần phải xác minh làm rõ nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa, nên thời hạn ban hành quyết định trong trường hợp này là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 66 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do đó, Quyết định số 107/QĐ-XPVPHC được ban hành ngày 07/8/2014 là còn trong thời hiệu được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6 và thời hạn được quy định tại khoản 1 Điều 66 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. [6] Biên bản vi phạm hành chính số 0003081 được lập ngày 11/7/2014 không có chữ ký của ông Trần Văn H.. Tuy nhiên, người có thẩm quyền lập biên bản đã làm việc trực tiếp với ông Dương Văn Dũng là người được ông Trần Văn H. ủy quyền điều hành mọi hoạt động của Cơ sở kinh doanh Toàn Thịnh do ông Hội làm chủ cơ sở, ông Dũng không đồng ý ký tên vào Biên bản vì sợ bị tịch thu hàng hóa. Việc lập Biên bản này có hai người chứng kiến là ông Đỗ Trường Giang Phòng Cảnh sát Kinh tế tỉnh An Giang và ông Huỳnh Xuân Trường Trưởng khóm Châu Long, phường Vĩnh Mỹ là đúng quy định tại đoạn 2 khoản 2 và đoạn 1 khoản 3 Điều 58 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

[7] Về thẩm quyền ban hành quyết định: Biên bản vi phạm hành chính số 0003081 ngày 11/7/2014, do Đội Quản lý Thị trường Số 2 thuộc Chi cục Quản lý Thị  trường  tỉnh  An  Giang  lập,  nhưng  do  hàng  hóa  vi  phạm  có  giá  trị  trên 100.000.000đ và khung phạt có mức cao nhất lên đến 80 triệu đồng là thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, nên Chi cục Quản lý Thị trường tỉnh An Giang chuyển việc vi phạm và đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh xử phạt là đúng theo trình tự được quy định tại đoạn 2 khoản 3 Điều 58 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

[8] Việc Phó Chủ tịch tỉnh ký Quyết định xử phạt theo Quyết định giao quyền xử phạt vi phạm hành chính số 574/QĐ-UBND ngày 21/4/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A là đúng quy định tại Điều 54 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

[9] Về nội dung vi phạm và mức xử phạt: Ông Trần Văn H. được Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện An Phú cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể lần đầu vào ngày 16/4/2012, ngành nghề kinh doanh mua bán nông sản, bắp đậu, mè, điều, sắn, me,….

[10] Ngày 29/8/2013, ông Hội lập Giấy ủy quyền có công chứng, ủy quyền cho ông Dương Văn Dũng thay mặt ông Hội điều hành mọi hoạt động kinh doanh của Cơ sở nông sản Toàn Thịnh, thời gian ủy quyền đến ngày 31/12/2014. Việc vi phạm được phát hiện vào ngày 30/6/2014 là trong phạm vi và thời gian ông Hội ủy quyền cho ông Dũng, nên ông Hội phải chiụ trách nhiệm trước pháp luật những việc do ông ủy quyền cho ông Dũng thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 586 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

[11] Do đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A  ban hành Quyết định số 107/QĐ-XPVPHC ngày 07/8/2014 xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Trần Văn H. là đúng đối tượng.

[12] Ông Hội cho rằng số me muối nêu trên ông mua của những người Việt Nam tại đất nước Việt Nam là đã chứng minh xuất xứ hàng hóa của Việt Nam. Mặt khác, số me bị bắt tịch thu là me không có hàm lượng muối, không phải là thực phẩm, nên việc xử phạt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A là không đúng. Tòa án nhận thấy: Sau khi hàng hóa bị lập biên bản tạm giữ, ông Dũng trình bày số me muối mua của những người mang đến bán nhưng không biết nguồn gốc xuất xứ, việc Cơ sở nông sản Toàn Thịnh mua hàng cũng không có hóa đơn, chứng từ, chỉ có bản kê danh sách tên những người bán hàng. Đội Quản lý Thị trường đã tiến hành xác minh tên họ những người có tên trong danh sách do ông Dũng cung cấp, nhưng Công an địa phương xác nhận không có tên họ những người này, nên không thể chứng minh được nguồn gốc, xuất xứ của số me muối nêu trên. Theo quy định tại khoản 14 Điều 3 của Luật Thương mại năm 2005 giải thích xuất xứ hàng hóa như sau: “Xuất xứ hàng hoá là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hoá…” đối chiếu trong trường hợp này, thì ông Hội không chứng minh được hàng hóa bị bắt, tịch thu thuộc nước nào hoặc vùng lãnh thổ nào trong nước Việt Nam, nên trong quyết định xử phạt nêu ông có hành vi kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc, xuất xứ là có cơ sở.

[13] Sau khi nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử, ông Trần Văn H. có Đơn yêu cầu kiểm nghiệm hàm lượng muối có trong me để chứng minh số me bị tịch thu không phải là me muối mà chỉ là quả me chín đã bóc vỏ là hàng nông sản, không phải là thực phẩm, Tòa án nhận thấy: Theo giải thích từ được quy định khoản 20, 21 Điều 2 của Luật An toàn thực phẩm thì thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản trong đó có rau, củ, quả tươi…đối chiếu trong trường hợp này thì me là loại quả dù có hàm lượng muối hay không có hàm lượng muối cũng là thực phẩm, cho nên việc ông Hội yêu cầu kiểm nghiệm không làm thay đổi bản chất của sự việc, nên không chấp nhận yêu cầu kiểm nghiệm của ông Hội.

[14] Tại phiên tòa, người được ông Hội ủy quyền cung cấp Hợp đồng mua bán ngày 01/5/2014 với ông Nguyễn Đình Thuần số lượng 19.000 kg khấu trừ số hàng đã giao 2.352 kg, số lượng còn lại là 16.648kg để chứng minh hàng hóa bị tạm giữ không phải 17.460 kg mà chỉ có 16.468 kg tính thành tiền là 99.888.000đ, chưa đến 100.000.000đ nên không thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A.

[15] Tòa án nhận thấy, Đội Quản lý Thị trường Số 2 lập biên bản tạm giữ hàng hóa ngày 30/6/2014 thể hiện rõ trọng lượng 17.460kg; Biên bản làm việc với ông Dương Văn Dũng và bà Dương Thị Điệp được ông Trần Văn H. ủy quyền cũng xác nhận số hàng hóa bị tạm giữ là 17.460kg. Trong suốt quá trình hàng hóa bị tạm giữ cho đến khi có Quyết đinh xử phạt vi phạm hành chính, phía ông Hội cũng như người được ông ủy quyền hoàn toàn không khiếu nại về số lượng hàng hóa bị tạm giữ mà chỉ khiếu nại về xuất xứ hàng hóa và me có hàm lượng muối hay không. Do đó, việc ông Hội trình bày hàng hóa bị tạm giữ có trọng lượng 16.468 kg không có cơ sở để chấp nhận.

[16] Do ông Trần Văn H. kinh doanh hàng hóa là thực phẩm không rõ nguồn gốc, xuất xứ có giá trị trên 100 triệu đồng, hành vi vi phạm không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A áp dụng điểm c khoản 1, khoản 12, điểm a khoản 13 Điều 21 của Nghị định 185/2013/NĐ-CP để xử phạt đối với ông Trần Văn H. ở mức trung bình khung với số tiền 70.000.000đ và tịch thu hàng hóa vi phạm là có căn cứ.

[17] Việc ông Trần Văn H. khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 107/QĐ- XPVPHC là không có cơ sở để chấp nhận, nên bác yêu cầu khởi kiện của ông.

[18] Về án phí hành chính sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H. không được chấp nhận, nên ông phải chịu 200.000đ án phí hành chính sơ thẩm, được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí đã nộp. Ông Hội đã nộp đủ án phí hành chính sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 163, khoản 1 Điều 176 của Luật Tố tụng hành Căn cứ khoản 3 Điều  4, điểm c khoản 1, khoản 12, điểm a khoản 13 và điểm a khoản 14 Điều 21 của Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

Căn cứ khoản 2 Điều 34 của Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày27/12/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

- Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H. đối với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 107/QĐ-XPVPHC ngày 07/8/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh A.

- Về án phí hành chính sơ thẩm, ông Trần Văn H. phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng), được trừ qua tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0000016 ngày 12/9/2014 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang. Ông Hội đã nộp đủ án phí hành chính sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

- Đương sự “ Để thi hành”

- VKSND.AG;

- THA.tỉnh AG;

- Phòng Giám đốc kiểm tra

- Lưu: Tòa Hành chính; Văn

phòng, hồ sơ.

 

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN-CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ

 

 

 

 

Bùi Thị Nguyễn

 

 

 

 

 

 

N

Tên bản án

Bản án: số 07/2014/HC-ST ngày 25/11/2014 của TAND tỉnh An Giang

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án