TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X

THÀNH PHỐ HCM

----------------------

Số: 07/2015/KDTM-ST

Ngày: 22/01/2015

Về vụ án: “Tranh chấp về bảo lãnh Ngân hàng”.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

-----------------------------------

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT KIỆT

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X - Thành phố HCM

Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

 

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thanh H

Các Hội thẩm nhân dân:

1.      Bà Nguyễn Thị H

2.      Ông Trương Công K

      Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Nguyễn Vân N – Cán bộ Toà án nhân dân Quận X, Thành phố HCM.

      Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X – Thành phố HCM tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Kim T – Kiểm sát viên.

 Ngày 15 tháng 01 năm 2015 tại Tòa án nhân dân Quận X - Thành phố HCM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 16/2012/TLST-KDTM ngày 14 tháng 03 năm 2012 về việc “Tranh chấp về bảo lãnh Ngân hàng”, tuyên án ngày 22 tháng 01 năm 2015 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2015/QĐST-KDTM ngày 15 tháng 01 năm 2015 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

NĐ_Công ty TNHH Xây dựng Sản xuất Thanh Thảo

Địa chỉ: 12 NH – phường BN – Quận X – Thành phố HCM.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hoa, trú tại: P5B10 lầu 5 Khu A – Số 4 NĐC – phường ĐK - Quận X – Thành phố HCM (có mặt), là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (văn bản ủy quyền ngày 24/11/2014).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư PTT (vắng mặt), Luật sư ĐTN(có mặt) – Văn phòng luật sư DT thuộc Đoàn luật sư Thành phố HN.

Bị đơn:

BĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần Xanh

Địa chỉ: LTK – phường THĐ - quận HK – Thành phố HN.

Địa chỉ chi nhánh: 166 LHP – Phường 3 – Quận X – Thành phố HCM.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Lê Hồng Kiệt, trú tại: 12 CMT8 –

Phường 12 - quận TB – thành phố HCM (vắng mặt); Ông Nguyễn Hữu Cảnh, trú tại: 32 LTT– quận HBT – Thành phố HN (có mặt); Bà Trần Anh Nhung, trú tại:

21 QT – Phường 10 - quận GV – Thành phố HCM (có mặt); là những người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (văn bản ủy quyền số 23/2012/GUQ-TPB-HĐQT ngày 27/07/2012).

 Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư NQT – Văn phòng luật sư TA thuộc Đoàn luật sư Thành phố ĐN (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

LQ_Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Thái Hòa

Địa chỉ: 321 NVN – Phường 7 – Quận GV – Thành phố HCM.

Người đại diện hợp pháp của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Yến, trú tại: 40 HV – Phường 9 - quận PN – Thành phố HCM (vắng mặt), là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 20/06/2014).

NHẬN THẤY:

        Trong đơn khởi kiện ngày 01/03/2012 và quá trình tố tụng, đại diện nguyên đơn (trước đây) là bà Nguyễn Thanh Thủy và bà Lê Thị Linhtrình bày:

        Ngày 29/01/2011, NĐ_Công ty TNHH Xây dựng Sản xuất Thanh Thảo (sau đây viết tắt là NĐ_Công ty Thanh Thảo) và LQ_Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Thái Hòa (sau đây viết tắt là LQ_Công ty Thái Hòa) có ký Hợp đồng PNH-KEN/2011/04 về việc cung cấp và lắp đặt hệ thống nhôm kính dự án Khu căn hộ cao cấp Kenton (sau đây viết tắt là Hợp đồng) với tổng giá trị là 186.683.100.180 đồng (đã bao gồm VAT). Thời gian hoàn thành công trình là 180 ngày kể từ ngày ký Hợp đồng.

        Để bảo đảm cho việc thực hiện Hợp đồng của LQ_Công ty Thái Hòa và theo thỏa thuận của hai bên, BĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần Xanh (sau đây viết tắt là BĐ_Ngân hàng Xanh) - CN Sài Gòn đã phát hành 02 (hai) thư bảo lãnh cho NĐ_Công ty Thanh Thảo, gồm:

        - Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước số 18/2011/HĐBL-TPB.SGN/03 ngày 05/05/2011 với số tiền bảo lãnh là 36.936.620.036 đồng, thời hạn bảo lãnh đến hết ngày 27/07/2011, được gia hạn đến hết ngày 31/12/2011 theo Thư gia hạn bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng số 53/2011/BL/TPB.SGN ngày 15/07/2011 (sau đây gọi chung là “Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước”); và

        - Thư bảo lãnh thực hiện Hợp đồng số 18/2011/BL/TPB.SGN ngày 11/05/2011 với số tiền bảo lãnh là 18.468.310.018 đồng, thời hạn bảo lãnh đến hết ngày 30/07/2011, được gia hạn đến hết ngày 31/12/2011 theo Thư gia hạn bảo lãnh thực hiện hợp đồng số 54/2011/BL/TPB.SGN ngày 15/07/2011 (sau đây gọi chung là “Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng”).

        Sau khi nhận được Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước và Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng của BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn, ngày 19/07/2011 NĐ_Công ty Thanh Thảo đã thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng là chuyển số tiền tạm ứng 36.936.620.036 đồng, tương đương với 20% tổng giá trị Hợp đồng vào tài khoản của LQ_Công ty Thái Hòa tại BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn.

        Trong quá trình thực hiện Hợp đồng, LQ_Công ty Thái Hòa đã vi phạm nghiêm trọng Hợp đồng đã ký: sử dụng tiền tạm ứng vào mục đích khác, làm chậm tiến độ thi công gây thiệt hại cho NĐ_Công ty Thanh Thảo. Ngày 08/07/2011, NĐ_Công ty Thanh Thảo đã gửi Công văn số

248B/2011/VB-TN yêu cầu LQ_Công ty Thái Hòa phải trả lại số tiền ứng trước là 36.936.620.036 đồng. Tuy nhiên, LQ_Công ty Thái Hòa không có ý kiến phản hồi và không thực hiện việc hoàn lại số tiền trên cho NĐ_Công ty Thanh Thảo.

        Do đó, ngày 19/07/2011 NĐ_Công ty Thanh Thảo đã chính thức phát hành Văn bản số 258/2011/CV-TN yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn thanh toán tiền bảo lãnh ứng trước cho NĐ_Công ty Thanh Thảo (yêu cầu lần 01).

        Ngày 13/09/2011, NĐ_Công ty Thanh Thảo tiếp tục gửi Công văn số 364/2011/CV-TN yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn thực hiện trách nhiệm bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước (yêu cầu lần 02) là 36.936.620.036 đồng và trách nhiệm bảo lãnh thực hiện hợp đồng là 18.468.310.018 đồng (yêu cầu lần 01).

        Ngày 16/09/2011, BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn đã gửi Công văn

21A/2011/TPB.SGN phản hồi cho NĐ_Công ty Thanh Thảo với nội dung: Người ký các Thư gia hạn bảo lãnh cho NĐ_Công ty Thanh Thảo là người không có thẩm quyền và Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước và Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng đã hết hiệu lực, do đó, BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn không còn nghĩa vụ phải thanh toán tiền bảo lãnh cho NĐ_Công ty Thanh Thảo.

        Nhận thấy BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn có hành vi thoái thác trách nhiệm thanh toán bảo lãnh, NĐ_Công ty Thanh Thảo đã phát hành các văn bản gửi đến BĐ_Ngân hàng Xanh, Ngân hàng Nhà nước Việt Kiệt, Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng để tố cáo hành vi trên và đề nghị BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn phải thực hiện đúng trách nhiệm thanh toán bảo lãnh đã cam kết.

        Sau nhiều công văn trao đổi, ngày 07/10/2011, BĐ_Ngân hàng Xanh đã trực tiếp gửi Công văn số 255/2011/TPPB-BĐH với nội dung chấp thuận thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo hai thư bảo lãnh nêu trên và đề nghị NĐ_Công ty Thanh Thảo thực hiện các thủ tục cần thiết theo đúng nội dung Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước.

       Thực hiện đúng đề nghị trên, ngày 10/10/2011, NĐ_Công ty Thanh Thảo đã tiến hành bàn giao hồ sơ đề nghị thanh toán bảo lãnh, đồng thời đã xuất trình (đưa ra để đối chiếu) bản gốc

Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước tại BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn để làm thủ tục hoàn trả tiền bảo lãnh theo Công văn số 255/2011/TPPB- BĐH nêu trên. Cùng ngày, NĐ_Công ty Thanh Thảo đã phát hành Công văn số 404/2011/VB-TN đề nghị BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện trách nhiệm hoàn trả tiền bảo lãnh chậm nhất ngày 11/10/2011 cho NĐ_Công ty Thanh Thảo (yêu cầu lần 03). Tuy nhiên, BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn vẫn không thực hiện việc thanh toán tiền bảo lãnh. Sau đó, ngày 11/10/2011, BĐ_Ngân hàng Xanh phát hành Công văn số 168/2011/TPB- BĐH đề nghị NĐ_Công ty Thanh Thảo xác định giá trị công trình mà LQ_Công ty Thái Hòa đã thi công theo Hợp đồng để có cơ sở thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

        Ngày 12/10/2011, NĐ_Công ty Thanh Thảo đã gửi Công văn số 408/2011/VB-TN cho BĐ_Ngân hàng Xanh, theo đó, NĐ_Công ty Thanh Thảo xác định khối lượng công việc mà

LQ_Công ty Thái Hòa đã thực hiện chỉ khoảng 10% và yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện trách nhiệm thanh toán bảo lãnh, trả tiền lãi phát sinh do chậm hoàn trả tiền bảo lãnh và liên đới

với LQ_Công ty Thái Hòa bồi thường các tổn thất cho NĐ_Công ty Thanh Thảo.

        Ngày 13/10/2011, BĐ_Ngân hàng Xanh phát hành Công văn số 273/2011/TPB-BĐH tiếp tục đề nghị NĐ_Công ty Thanh Thảo và LQ_Công ty Thái Hòa xác định về phần trách nhiệm mà LQ_Công ty Thái Hòa đã thực hiện để có cơ sở thực hiện việc bảo lãnh và không chấp nhận thanh toán tiền lãi và bồi thường thiệt hại cho NĐ_Công ty Thanh Thảo. Từ những hành vi trên cho thấy BĐ_Ngân hàng Xanh đã không có thiện chí và cố tình trốn tránh trách nhiệm thanh toán bảo lãnh. Do vậy, ngày 21/12/2011, NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi Công văn số 450/2011/VB-TN và Công văn 451/2011/VB-TN yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn phải thanh toán toàn bộ số tiền bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước cùng lãi phát sinh từ ngày 19/07/2011 và tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho NĐ_Công ty Thanh Thảo chậm nhất vào ngày 26/12/2011.

       Tuy nhiên, BĐ_Ngân hàng Xanh vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán bảo lãnh như đã cam kết. Ngày 31/12/2011, BĐ_Ngân hàng Xanh-CN Sài Gòn còn phát hành Công văn số 86/2011/TPB-SGN phản hồi cho NĐ_Công ty Thanh Thảo và đưa ra nhiều lý do không hợp lý để từ chối việc thực nghĩa vụ thanh toán bảo lãnh.

      Nay, NĐ_Công ty Thanh Thảo yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh phải thanh toán ngay một lần tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng, tiền bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước và tiền lãi phát sinh tính đến ngày 19/11/2014, tổng số tiền là: 71.325.119.271 đồng, trong đó:

      - Số tiền bảo lãnh thực hợp đồng là: 18.468.310.018;

      - Số tiền bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước là: 36.936.620.036 đồng;

      - Tiền lãi phát sinh của số tiền bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước tính từ ngày 19/07/2011 đến ngày 19/11/2014 là: 11.102.237.217 đồng và tiền lãi phát sinh của số tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng tính từ ngày 27/12/2011 đến ngày 19/11/2014 là: 4.817.952.000 đồng.

      NĐ_Công ty Thanh Thảo không tranh chấp với LQ_Công ty Thái Hòa về Hợp đồng PNH KEN/2011/04 ngày 29/01/2011 ký giữa hai bên trong vụ án này.

      NĐ_Công ty Thanh Thảo không còn ý kiến hay yêu cầu gì khác.

       Tại bản tự khai và quá trình tố tụng, đại diện bị đơn là ông Lê Hồng Kiệt, ông Nguyễn Hữu Cảnh và bà Trần Anh Nhung trình bày:

      Trên cơ sở Hợp đồng cấp bảo lãnh và đề nghị phát hành bảo lãnh của LQ_Công ty Thái Hòa, BĐ_Ngân hàng Xanh đã phát hành cho NĐ_Công ty Thanh Thảo 02 thư bảo lãnh cho Hợp đồng số PNH-KEN/2011/04 ngày 29/01/2011 - Dự án căn hộ cao cấp Kenton ký kết giữa LQ_Công ty Thái Hòa và NĐ_Công ty Thanh Thảo, gồm: Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước số 18/2011/HĐBL-TPB.SGN/03 ngày 05/05/2011 và Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng số 18/2011/BL/TPB.SGN ngày 11/05/2011. Sau đó phát hành thêm Thư gia hạn bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng số 53/2011/BL/TPB.SGN ngày 15/07/2011 và Thư gia hạn bảo lãnh thực hiện hợp đồng số 54/2011/BL/TPB.SGN ngày 15/07/2011 (gọi chung là Thư bảo lãnh).

       Tất cả Thư bảo lãnh được BĐ_Ngân hàng Xanh phát hành chỉ với 01 bản duy nhất và không có giá trị chuyển nhượng.

       Theo nội dung Thư bảo lãnh đã phát hành cho NĐ_Công ty Thanh Thảo, BĐ_Ngân hàng Xanh cam kết thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh sau khi các điều kiện đã nêu trong Thư bảo lãnh được đáp ứng.

       Quá trình NĐ_Công ty Thanh Thảo yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như sau:

       1. NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi Công văn số 258/2011/CV-TN đề ngày 19/07/2011, yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh - Chi nhánh Sài Gòn thanh toán tiền bảo lãnh tiền ứng trước cho NĐ_Công ty Thanh Thảo.

       NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi công văn này sau khi BĐ_Ngân hàng Xanh đã phát hành Thư gia hạn bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng (ngày 15/07/2011) trên cơ sở đề nghị của LQ_Công ty Thái Hòa (tại 02 đơn đề nghị gia hạn bảo lãnh ngày 28/06/2011 của LQ_Công ty Thái Hòa gửi BĐ_Ngân hàng Xanh) theo yêu cầu của NĐ_Công ty Thanh Thảo (Công văn số 239/2011/CV-

TN ngày 28/06/2011 của NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi LQ_Công ty Thái Hòa). Sau khi gửi Công văn 258/2011/CV-TN này, NĐ_Công ty Thanh Thảo cũng đã chấp thuận đề nghị của LQ_Công ty Thái Hòa để LQ_Công ty Thái Hòa làm thủ tục gia hạn bảo lãnh (theo bút phê tại Công văn số

210/CV-PK.2011 ngày 22/07/2011 của LQ_Công ty Thái Hòa). Ngoài ra, ngoài Công văn số

258/2011/CV-TN này, BĐ_Ngân hàng Xanh không nhận được bản gốc của Thư bảo lãnh nên không đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

       2. NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi Công văn số 364/2011/CV-TN đề ngày 13/09/2011, yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh - Chi nhánh Sài Gòn thực hiện trách nhiệm bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước.

       BĐ_Ngân hàng Xanh trả lời bằng văn bản số 21A/2011/TPB.SGN ngày 16/09/2011, theo đó do hai Thư bảo lãnh gốc đã hết hiệu lực, trong khi bà Nguyễn Thanh Thủy không được ủy quyền ký hai Thư gia hạn bảo lãnh nên Thư gia hạn bảo lãnh không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của BĐ_Ngân hàng Xanh.

       3. NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi Công văn số 382/2011/VB-TN đề ngày 21/09/2011 yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước;

       BĐ_Ngân hàng Xanh trả lời bằng văn bản số 26/2011/TPB.SGN ngày 27/9/2011 nêu lại nội dung tại văn bản số 21A/2011/TPB.SGN.

       4. NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi Công văn số 397/2011/VB-TN đề ngày 04/10/2011 yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo các Công văn 258/2011/CV-TN, Công văn 364/2011/CV-TN và Công văn số 382/2011/CV-TN.

       BĐ_Ngân hàng Xanh đã phúc đáp bằng Công văn số 255/2011/TPB-BĐH ngày 07/10/2011, trong đó nêu rõ:

       - BĐ_Ngân hàng Xanh chấp nhận thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo yêu cầu hoàn trả bảo lãnh tiền ứng trước và bão lãnh thực hiện hợp đồng của NĐ_Công ty Thanh Thảo. Để tạo điều kiện cho BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, đề nghị NĐ_Công ty Thanh Thảo thực hiện các thủ tục cần thiết theo đúng nội dung thư bảo lãnh.

        5. Tuy nhiên, thay vì thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục cần thiết theo nội dung Thư bảo lãnh, NĐ_Công ty Thanh Thảo tiếp tục gửi Công văn số 404/2011/VB-TN đề ngày 10/10/2011 yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh phải hoàn trả tiền bảo lãnh tiền ứng trước.

        Phúc đáp Công văn này, BĐ_Ngân hàng Xanh đã có Công văn số 268/2011/TPB-BĐH ngày 11/10/2011, khẳng định hiệu lực của Thư bảo lãnh, đồng thời nêu rõ ràng, cụ thể và đầy đủ các điều kiện, thủ tục cần thực hiện để BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trong đó có điều kiện về việc gửi bản gốc Thư bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh cũng như yêu cầu NĐ_Công ty Thanh Thảo và LQ_Công ty Thái Hòa xác định giá trị công trình mà LQ_Công ty Thái Hòa đã thực hiện để làm cơ sở cho BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ đã cam kết.

        6. Thay vì tiến hành các thủ tục, điều kiện theo nội dung của Thư bảo lãnh, NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi Công văn số 408/2011/VB-TN đề ngày 12/10/2011 yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh hoàn trả tiền bảo lãnh tiền ứng trước, khẳng định NĐ_Công ty Thanh Thảo không có nghĩa vụ phải thực hiện bất kỳ đề nghị nào khác của BĐ_Ngân hàng Xanh, ngoài việc cung cấp bản gốc Thư bảo lãnh số 18/2011/HĐBL-TPB.SGN/03 khi BĐ_Ngân hàng Xanh hoàn trả đầy đủ tiền bảo lãnh tiền ứng trước cho NĐ_Công ty Thanh Thảo.

        Phúc đáp Công văn này, BĐ_Ngân hàng Xanh gửi cho NĐ_Công ty Thanh Thảo Công văn số 273/2011/TPB-BĐH ngày 13/10/2011, tiếp tục khẳng định sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo đúng những gì đã cam kết, đồng thời tiếp tục liệt kê rõ những thủ tục, điều kiện cần phải tiến hành để BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện việc hoàn trả tiền theo nghĩa vụ bảo lãnh.

        7. Một lần nữa, NĐ_Công ty Thanh Thảo không thực hiện các thủ tục, điều kiện như đã nêu trong Thư bảo lãnh, mà gửi Công văn số 450/2011/VB-TN đề ngày 21/12/2011 yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh thanh toán tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng và Công văn số 451/2011/VB-TN đề ngày 21/12/2011 yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh thanh toán tiền bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước.

        Phúc đáp 02 Công văn này, BĐ_Ngân hàng Xanh đã gửi văn bản số 86/2011/TPB-SGN ngày 31/12/2011 cho NĐ_Công ty Thanh Thảo, một lần nữa liệt kê rõ các điều kiện để BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, đồng thời chỉ rõ cho đến ngày 31/12/2011, do NĐ_Công ty Thanh Thảo chưa xuất trình đúng và đầy đủ cho BĐ_Ngân hàng Xanh các hồ sơ, tài liệu theo điều kiện của Thư bảo lãnh nên BĐ_Ngân hàng Xanh vẫn không thể thực hiện được nghĩa vụ bảo lãnh như đã cam kết.

        Như vậy:

1. Quá trình yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của NĐ_Công ty Thanh Thảo chỉ bằng và dựa trên các công văn yêu cầu mà không thực hiện theo đúng và đầy đủ các điều kiện đã được nêu rõ trong Thư bảo lãnh.

       Bên cạnh đó, nhằm loại trừ yếu tố sai sót có thể gây hiểu nhầm giữa các bên, BĐ_Ngân hàng Xanh đã bằng Công văn số 255/2011/TPB-BĐH ngày 07/10/2011, Công văn số 268/2011/TPB-BĐH ngày 11/10/2011 và Công văn số 273/2011/TPB-BĐH ngày 13/10/2011, ba lần lưu ý và yêu cầu NĐ_Công ty Thanh Thảo thực hiện các thủ tục cần thiết theo đúng nội dung thư bảo lãnh để tạo điều kiện cho BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Tuy nhiên, NĐ_Công ty Thanh Thảo đã không thực hiện đầy đủ các điều kiện, thủ tục này.

Điều này thể hiện rõ trong các văn bản gửi cho BĐ_Ngân hàng Xanh, NĐ_Công ty Thanh Thảo luôn khẳng định việc không đưa ra bản gốc Thư bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh.

       2. Việc BĐ_Ngân hàng Xanh yêu cầu NĐ_Công ty Thanh Thảo thực hiện đúng theo quy định tại Thư bảo lãnh không chỉ là phản ánh đúng nội dung BĐ_Ngân hàng Xanh đã cam kết và NĐ_Công ty Thanh Thảo đã chấp nhận, mà còn tuân thủ đúng quy định của pháp luật về “thỏa mãn đầy đủ các điều kiện đã quy định trong cam kết bảo lãnh” như Khoản 1 Điều 27 Quy chế bảo lãnh ngân hàng.

       3. Do đó:

       - Căn cứ Quy chế bảo lãnh ngân hàng;

       - Căn cứ nội dung cam kết của BĐ_Ngân hàng Xanh tại các thư bảo lãnh đã phát hành cho NĐ_Công ty Thanh Thảo;

       - Căn cứ vào các thông tin, tài liệu đã cung cấp.

       BĐ_Ngân hàng Xanh không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của NĐ_Công ty Thanh Thảo.

        Tại bản tự khai và quá trình tố tụng, đại diện LQ_Công ty Thái Hòa là ông Nguyễn Văn

Kha, bà Nguyễn Thị Tú, bà Nguyễn Thị Yến trình bày:

       Ngày 29/01/2011, giữa NĐ_Công ty Thanh Thảo và LQ_Công ty Thái Hòa có ký Hợp đồng PNH-KEN/2011/04 về việc cung cấp và lắp đặt hệ thống nhôm kính dự án Khu căn hộ cao cấp Kenton với tổng giá trị là 186.683.100.180 đồng, thời gian hoàn thành công trình là 180 ngày kể từ ngày ký hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng gặp một số trở ngại nên LQ_Công ty Thái Hòa và NĐ_Công ty Thanh Thảo đã có công văn trao đổi thay đổi một số nội dung của hợp đồng. Ngày 26/10/2011 LQ_Công ty Thái Hòa nhận được công văn số 248B/2011/VB-TN đề ngày 08/07/2011 của NĐ_Công ty Thanh Thảo yêu cầu hoàn trả số tiền tạm ứng là 36.936.620.036 đồng. Ngày 26/12/2011 NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi văn bản số 462/2011/VB- TN thông báo chấm dứt Hợp đồng với LQ_Công ty Thái Hòa.

       LQ_Công ty Thái Hòa không thể hoàn thành công việc tại công trình nguyên nhân chính là do NĐ_Công ty Thanh Thảo thông báo tạm ngưng thi công, đóng cửa công trình. Tổng giá trị mà LQ_Công ty Thái Hòa đã đầu tư vào công trình Kenton là 29.149.758.000 đồng. Tuy nhiên, trong vụ án này LQ_Công ty Thái Hòa không tranh chấp với NĐ_Công ty Thanh Thảo về Hợp đồng PNH-KEN/2011/04 ngày 29/01/2011 đã ký NĐ_Công ty Thanh Thảo.

       Để được BĐ_Ngân hàng Xanh phát hành Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng và Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước cho NĐ_Công ty Thanh Thảo, LQ_Công ty Thái Hòa đã ký quỹ tại BĐ_Ngân hàng Xanh số tiền là 8.310.739.508 đồng theo Hợp đồng cấp bảo lãnh số 18/2011/HĐBL-TPB.SGN ngày 05/05/2011 ký giữa BĐ_Ngân hàng Xanh và LQ_Công ty Thái Hòa. Trong vụ án này LQ_Công ty Thái Hòa cũng không tranh chấp với BĐ_Ngân hàng Xanh về

Hợp đồng cấp bảo lãnh số 18/2011/HĐBL-TPB.SGN ngày 05/05/2011.

     Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.

      Những vấn đề khác: Ngày 03/08/2012 LQ_Công ty Thái Hòa có đơn yêu cầu giám định Tổng giá trị hệ thống nhôm kính được LQ_Công ty Thái Hòa cung cấp và lắp đặt tại công trình Khu căn hộ cao cấp Kenton. Tòa án đã ra Quyết định yêu cầu Công ty cổ phần Tư vấn công nghệ, Thiết bị và kiểm định xây dựng CONICO và Công ty cổ phần Giám định – Thẩm định Đông Kiệt Á thực hiện thẩm định nhưng cả hai đơn vị này đều không thực hiện được việc thẩm định giá theo yêu cầu của Tòa án. Ngày 29/09/2014 LQ_Công ty Thái Hòa xác định không yêu cầu thẩm định nữa.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bà Phú – Đại diện NĐ_Công ty Thanh Thảo: Giữ nguyên quan điểm như trên và bổ sung:

       NĐ_Công ty Thanh Thảo yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh phải thanh toán tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng, tiền bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước và tiền lãi phát sinh tính do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán đến ngày 19/11/2014, tổng số tiền là: 71.325.119.271 đồng, tiền lãi phát sinh từ ngày 20/11/2014 trở về sau không yêu cầu giải quyết. Cơ sở tính tiền lãi theo qui định của Ngân hàng Nhà nước lãi suất cơ bản là 9%/năm.

       Ngày 10/10/2011, nhân viên NĐ_Công ty Thanh Thảo đã trực tiếp đến trụ sở BĐ_Ngân hàng Xanh – Chi nhánh Sài Gòn nộp hồ sơ đề nghị thanh toán bảo lãnh gồm bản chính các công văn yêu cầu thanh toán và bản phô tô các thư bảo lãnh, thư gia hạn bảo lãnh, có đem theo bản bản chính để BĐ_Ngân hàng Xanh đối chiếu. NĐ_Công ty Thanh Thảo không thể giao bản gốc thư bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh là do không tin tưởng vì trước đó BĐ_Ngân hàng Xanh đã có biểu hiện không chịu trả tiền bảo lãnh và không thừa nhận giá trị các thư gia hạn bảo lãnh. Hiện nay NĐ_Công ty Thanh Thảo vẫn đang giữ bản gốc các thư bảo lãnh.

       Ngày 17/05/2011 NĐ_Công ty Thanh Thảo đã chuyển cho LQ_Công ty Thái Hòa số tiền ứng trước 36.936.620.036 đồng nhưng trước đây khai nhầm là ngày 19/07/2011.

- Ông Thanh – Đại diện BĐ_Ngân hàng Xanh giữ nguyên quan điểm như trên và bổ sung:

       Quá trình yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh thanh toán tiền bảo lãnh, NĐ_Công ty Thanh Thảo chỉ gửi công văn qua đường bưu điện. Ngày 10/10/2011 có nhân viên NĐ_Công ty Thanh Thảo đến nộp hồ sơ nhưng hồ sơ chỉ có bản phô tô các thư bảo lãnh mà không giao nộp bản gốc. Tại biên bản giao nhận hồ sơ ngày 10/10/2011 cũng không thể hiện NĐ_Công ty Thanh Thảo có đưa ra bản chính thư bảo lãnh để đối chiếu.

       Việc NĐ_Công ty Thanh Thảo không giao nộp bản gốc thư bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng

Xanh để yêu cầu thanh toán bảo lãnh còn được thể hiện qua các công văn NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi BĐ_Ngân hàng Xanh là Công văn số 404/2011/VB-TN ngày 10/10/2011, Công văn số 450/2011/VB-TN ngày 21/12/2011 và Công văn số 451/2011/VB-TN ngày 21/12/2011, NĐ_Công ty Thanh Thảo luôn khẳng định chỉ đưa bản gốc Thư bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh khi BĐ_Ngân hàng Xanh hoàn trả đầy đủ tiền bảo lãnh.

       Theo qui định tại Khoản 1 Điều 27 Quy chế bảo lãnh ngân hàng thì bên nhận bảo lãnh phải xuất trình yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và các tài liệu, chứng cứ kèm theo thỏa mãn đầy đủ các điều kiện đã qui định trong cam kết bảo lãnh. Do NĐ_Công ty Thanh Thảo chưa xuất trình đúng và đầy đủ cho BĐ_Ngân hàng Xanh các hồ sơ, tài liệu theo điều kiện của Thư bảo lãnh nên BĐ_Ngân hàng Xanh không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là đúng qui định. Bà Nhung - Đại diện BĐ_Ngân hàng Xanh thống nhất lời trình bày của ông Thanh. Ông Kiệt - Đại diện BĐ_Ngân hàng Xanh: Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bà Yến – Đại diện LQ_Công ty Thái Hòa: Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

        Luật sư Nhàn (bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn) phát biểu:

        Các thư bảo lãnh BĐ_Ngân hàng Xanh phát hành cho NĐ_Công ty Thanh Thảo là hợp pháp. Trong thời hạn bảo lãnh đã phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh vì LQ_Công ty Thái Hòa vi phạm Hợp đồng, cụ thể là không hoàn thành công trình đúng thời hạn, dùng tiền ứng trước vào mục đích khác. Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước qui định điều kiện thanh toán bảo lãnh là “có yêu cầu đòi tiền bằng văn bản của chủ đầu tư” nên NĐ_Công ty Thanh Thảo chỉ gửi văn bản cho

BĐ_Ngân hàng Xanh mà không cần LQ_Công ty Thái Hòa phải xác nhận là có vi phạm hợp đồng.

        Trong thời hạn bảo lãnh, NĐ_Công ty Thanh Thảo đã thực hiện đầy đủ các thủ tục yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh thanh toán tiền bảo lãnh như gửi công văn, sau đó trực tiếp nộp hồ sơ, có đem bản chính các thư bảo lãnh đến để đối chiếu. NĐ_Công ty Thanh Thảo đã yêu cầu thanh toán bảo lãnh đúng qui định nhưng BĐ_Ngân hàng Xanh không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền bảo lãnh nên phát sinh tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ. NĐ_Công ty Thanh Thảo yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh phải trả số tiền bảo lãnh và tiền lãi là có cơ sở, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của NĐ_Công ty Thanh Thảo.

        - Luật sư Tín (bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn): Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

        - Luật sư Tuấn (bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn) phát biểu:

        NĐ_Công ty Thanh Thảo đã không thực hiện đúng các điều kiện để được trả tiền bảo lãnh, trong đó có điều kiện phải nộp bản gốc Thư bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh vì nội dung các thư bảo lãnh và thư gia hạn bảo lãnh đều khẳng định một trong những điều kiện để BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là BĐ_Ngân hàng Xanh phải nhận được bản gốc thư bảo lãnh. NĐ_Công ty Thanh Thảo không giao nộp bản gốc thư bảo lãnh trong thời hạn bảo lãnh nên BĐ_Ngân hàng Xanh không thể xem xét trả tiền bảo lãnh là đúng qui định.

      Ngoài ra, NĐ_Công ty Thanh Thảo cũng không chứng minh được LQ_Công ty Thái Hòa vi phạm Hợp đồng PNH-KEN/2011/04 vì trong quá trình thực hiện hợp đồng, NĐ_Công ty Thanh Thảo đã có thông báo tạm ngưng thi công trong khi LQ_Công ty Thái Hòa vẫn đang thực hiện. LQ_Công ty Thái Hòa không xác nhận có hành vi vi phạm hợp đồng như NĐ_Công ty Thanh Thảo đã nêu nên NĐ_Công ty Thanh Thảo không thể đơn phương cho rằng LQ_Công ty Thái Hòa vi phạm hợp đồng để yêu cầu thanh toán tiền bảo lãnh.

        Đề nghị xem xét lại NĐ_Công ty Thanh Thảo khởi kiện có đủ điều kiện khởi kiện không vì khi khởi kiện thời hạn bảo lãnh đã hết. Nếu đủ điều kiện thụ lý giải quyết vụ án thì đề nghị bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn vì việc đòi tiền bảo lãnh là không có cơ sở.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X phát biểu:

       Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa hôm nay, thẩm phán, hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng qui trình tố tụng giải quyết vụ án. Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng qui định pháp luật.

XÉT THẤY:

       Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

       Về hình thức:

       Xét đơn khởi kiện của nguyên đơn, xác định đây là vụ án dân sự về việc “Tranh chấp về bảo lãnh Ngân hàng”. Tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh BĐ_Ngân hàng Xanh, chi nhánh BĐ_Ngân hàng Xanh (Chi nhánh Sài Gòn) tại Quận X – Thành phố HCM nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận X theo sự lựa chọn của nguyên đơn qui định tại Điểm b Khoản 1 Điều 36 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

       Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn còn thời hiệu theo qui định tại Điều 319 Luật thương mại.

       Tòa án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ ba cho bà Nguyễn Thị Yến là đại diện theo ủy quyền của LQ_Công ty Thái Hòa nhưng bà Yến vắng mặt tại phiên tòa và đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư PDT và một trong những người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Lê Hồng Kiệt đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do đó quyết định tiến hành xét xử vắng mặt đại diện LQ_Công ty Thái Hòa, Luật sư PDT và ông Lê Hồng Kiệt theo qui định tại Điều 199, Điều 202 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

       Về nội dung:

       Qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của các đương sự đã có đủ cơ sở xác định:

       Ngày 29/01/2011, giữa NĐ_Công ty Thanh Thảo và LQ_Công ty Thái Hòa có ký Hợp đồng PNH-KEN/2011/04, nội dung LQ_Công ty Thái Hòa cung cấp và lắp đặt hệ thống nhôm kính cho dự án Khu căn hộ cao cấp Kenton do NĐ_Công ty Thanh Thảo làm chủ đầu tư, tổng giá trị hợp đồng là 186.683.100.180 đồng. Theo yêu cầu của LQ_Công ty Thái Hòa, BĐ_Ngân hàng Xanh – Chi nhánh Sài Gòn đã phát hành 02 thư bảo lãnh và 02 thư gia hạn bảo lãnh cho đơn vị thụ hưởng là NĐ_Công ty Thanh Thảo, gồm:

       - Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước số 18/2011/HĐBL-TPB.SGN/03 ngày 05/05/2011, số tiền bảo lãnh là 36.936.620.036 đồng, thời hạn bảo lãnh đến hết ngày 27/07/2011, được gia hạn đến hết ngày 31/12/2011 theo Thư gia hạn bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng số

53/2011/BL/TPB.SGN ngày 15/07/2011;

       - Thư bảo lãnh thực hiện Hợp đồng số 18/2011/BL/TPB.SGN ngày 11/05/2011, số tiền bảo lãnh là 18.468.310.018 đồng, thời hạn bảo lãnh đến hết ngày 30/07/2011, được gia hạn đến hết ngày 31/12/2011 theo Thư gia hạn bảo lãnh thực hiện hợp đồng số 54/2011/BL/TPB.SGN ngày 15/07/2011.

       Ngày 17/05/2011 NĐ_Công ty Thanh Thảo đã chuyển cho LQ_Công ty Thái Hòa số tiền ứng trước 36.936.620.036 đồng.

       Theo NĐ_Công ty Thanh Thảo thì LQ_Công ty Thái Hòa đã vi phạm nghiêm trọng Hợp đồng PNH-KEN/2011/04 nên ngày 08/07/2011, NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi Công văn số 248B/2011/VB-TN yêu cầu LQ_Công ty Thái Hòa phải trả lại số tiền ứng trước nhưng LQ_Công ty Thái Hòa không thực hiện, BĐ_Ngân hàng Xanh cũng từ chối trách nhiệm bảo lãnh dù đã nhận được yêu cầu. Do đó, NĐ_Công ty Thanh Thảo căn cứ các Thư bảo lãnh và Thư gia hạn bảo lãnh do BĐ_Ngân hàng Xanh – Chi nhánh Sài Gòn phát hành khởi kiện yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh phải thanh toán tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng, tiền bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước và tiền lãi phát sinh tính đến ngày 19/11/2014, tổng số tiền là: 71.325.119.271 đồng.

       Về phía BĐ_Ngân hàng Xanh thừa nhận giá trị các Thư bảo lãnh và Thư gia hạn bảo lãnh do BĐ_Ngân hàng Xanh – Chi nhánh Sài Gòn phát hành cho NĐ_Công ty Thanh Thảo nhưng không chấp nhận yêu cầu của NĐ_Công ty Thanh Thảo vì cho rằng BĐ_Ngân hàng Xanh từ chối thanh toán bảo lãnh là do NĐ_Công ty Thanh Thảo chưa thực hiện đúng các điều kiện yêu cầu thanh toán qui định tại các Thư bảo lãnh.

Xét yêu cầu thanh toán tiền bảo lãnh ứng trước của nguyên đơn:

        Việc BĐ_Ngân hàng Xanh phát hành Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước số 18/2011/HĐBL-TPB.SGN/03 ngày 05/05/2011 và Thư gia hạn bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng số 53/2011/BL/TPB.SGN ngày 15/07/2011 là đúng qui định theo Qui chế bảo lãnh Ngân hàng. Về giá trị Thư bảo lãnh và Thư gia hạn bảo lãnh BĐ_Ngân hàng Xanh đã thừa nhận.

        Tại Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, BĐ_Ngân hàng Xanh cam kết sẽ trả cho NĐ_Công ty Thanh Thảo một khoản tiền tối đa là 36.936.620.036 đồng sau khi nhận được:

        “+ Yêu cầu đòi tiền bằng văn bản của chủ đầu tư (do người đại diện có thẩm quyền ký) kèm theo xác nhận của chủ đầu tư do nhà thầu không thực hiện đúng điều 5 của hợp đồng;

        + Bản gốc thư bảo lãnh này”

        Phần cuối thư bảo lãnh có ghi “Thư bảo lãnh này được lập thành 01 (một) bản duy nhất và không có giá trị chuyển nhượng. Mọi yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh phải xuất trình được thư bảo lãnh bản gốc này”

        Thời hạn bảo lãnh đến hết ngày 27/07/2011, tuy nhiên tại Thư gia hạn bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng đã gia hạn thời hạn bảo lãnh đến hết ngày 31/12/2011 và ghi nhận:

        “Ngoài thời hạn bảo lãnh điều chỉnh trên, tất cả các nội dung khác trên thư bảo lãnh số 18/2011/HĐBL-TPB.SGN/03 đều không thay đổi.

        Thư gia hạn bảo lãnh là một phần không thể tách rời thư bảo lãnh số 18/2011/HĐBL TPB.SGN/03, trong mọi trường hợp người thụ hưởng phải xuất trình đồng thời bản chính của thư gia hạn bảo lãnh này và bản chính thư bảo lãnh số 18/2011/HĐBL-TPB.SGN/03 phát hành ngày

15/07/2011 tại BĐ_Ngân hàng Xanh trước ngày 31/12/2011”.

       Xét thấy, trong thời hạn bảo lãnh từ ngày 05/05/2011 đến hết ngày 31/12/2011, NĐ_Công ty Thanh Thảo đã gửi cho BĐ_Ngân hàng Xanh các văn bản yêu cầu thanh toán tiền bảo lãnh sau đây: Công văn số 258/2011/CV-TN ngày 19/07/2011, Công văn số 364/2011/CV- TN ngày 13/09/2011, Công văn số 404/2011/VB-TN ngày 10/10/2011, Công văn số 408/2011/VB-TN Ngày 12/10/2011, Công văn số 450/2011/VB-TN ngày 21/12/2011 và Công văn 451/2011/VB-TN ngày 21/12/2011.

       Các công văn đòi tiền của NĐ_Công ty Thanh Thảo là có cơ sở theo đúng nội dung BĐ_Ngân hàng Xanh đã cam kết tại thư bảo lãnh. Tuy nhiên kèm theo các công văn, NĐ_Công ty Thanh Thảo thừa nhận không giao nộp bản gốc thư bảo lãnh và thư gia hạn bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh mà chỉ nộp bản phô tô, có đem bản chính để đối chiếu. NĐ_Công ty Thanh Thảo giải thích không giao bản gốc cho BĐ_Ngân hàng Xanh là do không tin tưởng BĐ_Ngân hàng Xanh và cho rằng tại Thư gia hạn bảo lãnh chỉ yêu cầu người thụ hưởng xuất trình bản gốc chứ không phải nộp lại bản gốc thư bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh trước khi nhận được toàn bộ số tiền bảo lãnh.

       Đối chiếu với nội dung thư bảo lãnh và thư gia hạn bảo lãnh đã trích dẫn trên thì nội dung thư bảo lãnh vẫn nguyên giá trị, trừ thời hạn bảo lãnh được điều chỉnh bởi thư gia hạn bảo lãnh.

Nghĩa là một trong những điều kiện BĐ_Ngân hàng Xanh thanh toán tiền bảo lãnh cho NĐ_Công ty Thanh Thảo là BĐ_Ngân hàng Xanh phải nhận được bản gốc thư bảo lãnh trong thời hạn bảo lãnh.

       Hơn nữa khái niệm “xuất trình” trong lĩnh vực thanh toán ngân hàng không phải là đưa ra để xem hay đối chiếu mà là trình và giao nộp cho ngân hàng để nhận lại sự thanh toán (Tương tự như trường hợp xuất trình SEC - công cụ chuyển nhượng). Trường hợp của NĐ_Công ty Thanh Thảo là phải giao nộp bản gốc thư bảo lãnh và thư gia hạn bảo lãnh để nhận được sự thanh toán tiền bảo lãnh của BĐ_Ngân hàng Xanh. Mặt khác, BĐ_Ngân hàng Xanh chỉ phát hành duy nhất 01 bản gốc thư bảo lãnh thì phải nhận lại để kiểm tra tính pháp lý. Nếu hiểu “xuất trình” là đưa ra để xem chứ không phải nộp lại bản gốc như NĐ_Công ty Thanh Thảo trình bày thì

NĐ_Công ty Thanh Thảo cũng không chứng minh được là có đưa cho BĐ_Ngân hàng Xanh xem bản gốc các thư bảo lãnh vì tại biên bản giao nhận hồ sơ ngày 10/10/2011 không thể hiện các bản phô tô thư bảo lãnh NĐ_Công ty Thanh Thảo giao nộp đã được BĐ_Ngân hàng Xanh đối chiếu bản chính.

       BĐ_Ngân hàng Xanh cũng đã có các công văn phúc đáp yêu cầu đòi tiền của NĐ_Công ty Thanh Thảo là: Công văn số 255/2011/TPB-BĐH ngày 07/10/2011, 268/2011/TPB-BĐH ngày 11/10/2011, Công văn số 273/2011/TPB-BĐH ngày 13/10/2011, Công văn số 86/2011/TPB-SGN ngày 31/12/2011. Nội dung các công văn đều khẳng định BĐ_Ngân hàng Xanh sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo đúng những gì đã cam kết, đồng thời liệt kê rõ những thủ tục, điều kiện cần phải tiến hành để BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện việc trả tiền bảo lãnh, trong đó có điều kiện là NĐ_Công ty Thanh Thảo phải gửi bản gốc Thư bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh. Như vậy NĐ_Công ty Thanh Thảo không thể không biết điều kiện để được thanh toán bảo lãnh là phải nộp bản gốc thư bảo lãnh, tuy nhiên đến hết thời hạn bảo lãnh là ngày 31/12/2011 NĐ_Công ty Thanh Thảo vẫn không giao nộp.

        NĐ_Công ty Thanh Thảo lấy lý do trước đây BĐ_Ngân hàng Xanh không thừa nhận giá trị Thư gia hạn bảo lãnh nên không tin tưởng để giao bản gốc thư bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh trước khi nhận được toàn bộ số tiền bảo lãnh. Điều này chứng tỏ NĐ_Công ty Thanh Thảo cũng hiểu việc phải nộp lại bản gốc thư bảo lãnh để được thanh toán bảo lãnh nhưng do không tin tưởng nên không giao nộp, lý do này là không chấp nhận được bởi lẽ: Nếu cho rằng BĐ_Ngân hàng Xanh đã sai khi không thừa nhận giá trị Thư gia hạn bảo lãnh thì NĐ_Công ty Thanh Thảo cũng không nên có hành vi sai phạm tương ứng là không giao nộp bản gốc thư bảo lãnh mà cần thực hiện đúng các điều kiện, thủ tục yêu cầu thanh toán bảo lãnh (trong đó phải nộp bản gốc thư bảo lãnh) để được luật pháp bảo vệ.

        Theo vi bằng do Văn phòng thừa phát lại quận Bình Thạnh – Thành phố HCM lập ngày 06/01/2012 thì đến ngày 06/01/2012 NĐ_Công ty Thanh Thảo mới giao nộp bản gốc thư bảo lãnh và thư gia hạn bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh nhưng BĐ_Ngân hàng Xanh từ chối nhận. Thời điểm ngày 06/01/2012 Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước số 18/2011/HĐBL-

TPB.SGN/03 ngày 05/05/2011 và Thư gia hạn bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng số 53/2011/BL/TPB.SGN ngày 15/07/2011 do BĐ_Ngân hàng Xanh – Chi nhánh Sài Gòn phát hành đã hết hiệu lực, không còn giá trị để yêu cầu thanh toán do thời hạn của bảo lãnh đã hết, nghĩa vụ bảo lãnh của BĐ_Ngân hàng Xanh đã chấm dứt theo qui định tại Điều 18 Qui chế bảo lãnh ngân hàng năm 2006, do đó BĐ_Ngân hàng Xanh từ chối nhận bản gốc thư bảo lãnh là đúng qui định.

        Ngoài ra, không có chứng cứ thể hiện NĐ_Công ty Thanh Thảo gửi Công văn số

248B/2011/VB-TN ngày 08/07/2011 yêu cầu LQ_Công ty Thái Hòa hoàn trả lại số tiền ứng trước vào đúng ngày phát hành văn bản là ngày 08/07/2011, mà đến ngày 25/10/2011 LQ_Công ty Tân

Vũ mới nhận được văn bản này (thể hiện qua phiếu chuyển phát nhanh ngày 25/10/2011

LQ_Công ty Thái Hòa cung cấp). Do NĐ_Công ty Thanh Thảo chưa yêu cầu LQ_Công ty Thái Hòa hoàn trả tiền ứng trước mà ngày 19/07/2011 đã phát công văn số 258/2011/CV-TN yêu cầu người bảo lãnh là BĐ_Ngân hàng Xanh phải thanh toán bảo lãnh là chưa phù hợp với nội dung thư bảo lãnh và qui định tại Khoản 6 Điều 5 Qui chế bảo lãnh ngân hàng năm 2006.

        Như vậy, BĐ_Ngân hàng Xanh từ chối thực hiện thanh toán tiền bảo lãnh cho

NĐ_Công ty Thanh Thảo là có cơ sở pháp lý, bởi lẽ:

        Theo qui định tại Điều 294 của Bộ luật dân sự thì “Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định về điều kiện thực hiện nghĩa vụ dân sự thì khi điều kiện phát sinh, bên có nghĩa vụ phải thực hiện”

        Và theo Điều 27 Qui chế bảo lãnh ngân hàng năm 2006 thì “Trong thời hạn bảo lãnh, bên bảo lãnh hoặc bên xác nhận bảo lãnh hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên nhận bảo lãnh xuất trình yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và các tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có) thỏa mãn đầy đủ các điều kiện đã qui định trong cam kết bảo lãnh”

        NĐ_Công ty Thanh Thảo chưa thực hiện đầy đủ điều kiện đã qui định trong cam kết bảo lãnh (là gửi bản gốc thư bảo lãnh trong thời hạn của thư bảo lãnh) để yêu cầu BĐ_Ngân hàng Hải Hà thực hiện nghĩa vụ nên BĐ_Ngân hàng Xanh từ chối thanh toán tiền bảo lãnh cho NĐ_Công ty Thanh Thảo là có cơ sở đúng qui định pháp luật. Do đó không chấp nhận việc NĐ_Công ty Thanh Thảo yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh phải trả số tiền bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước là 36.936.620.036 đồng và tiền lãi tính từ ngày 19/07/2011 đến ngày 19/11/2014 là: 11.102.237.217 đồng. Việc thẩm định giá trị hệ thống nhôm kính LQ_Công ty Thái Hòa đã cung cấp và lắp đặt tại công trình Khu căn hộ cao cấp Kenton theo yêu cầu của LQ_Công ty Thái Hòa không thực hiện được và sau đó LQ_Công ty Thái Hòa không còn yêu cầu thẩm định nữa nên cơ sở để xác định giá trị công trình LQ_Công ty Thái Hòa đã thực hiện chỉ dựa vào lời khai của các bên và các chứng cứ khác. LQ_Công ty Thái Hòa xác định đã đầu tư vào công trình số tiền là 29.149.758.000 đồng nhưng không được NĐ_Công ty Thanh Thảo chấp nhận, NĐ_Công ty Thanh Thảo chỉ thừa nhận giá trị công trình LQ_Công ty Thái Hòa đã thực hiện đến thời điểm ngày 19/07/2011 vào khoảng 17.000.000.000 đồng nhưng chưa được nghiệm thu.

       Tuy nhiên, phần giá trị công trình LQ_Công ty Thái Hòa đã thực hiện theo Hợp đồng PNH-KEN/2011/04 chỉ có ý nghĩa để xem xét giảm trừ nghĩa vụ bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh trong trường hợp BĐ_Ngân hàng Xanh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Do đã không chấp nhận việc NĐ_Công ty Thanh Thảo yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nên không cần phải xét đến phần giá trị công trình LQ_Công ty Thái Hòa đã thực hiện theo Hợp đồng PNH-KEN/2011/04.

        Xét yêu cầu thanh toán tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng của nguyên đơn:

       Theo nội dung Thư bảo lãnh thực hiện Hợp đồng số 18/2011/BL/TPB.SGN ngày 11/05/2011 và Thư gia hạn bảo lãnh thực hiện hợp đồng số 54/2011/BL/TPB.SGN ngày 15/07/2011 thì BĐ_Ngân hàng Xanh cam kết sẽ trả cho NĐ_Công ty Thanh Thảo một khoản tiền tối đa là 18.468.310.018 đồng sau khi nhận được bản gốc thư bảo lãnh và văn bản yêu cầu kèm hồ sơ chứng minh LQ_Công ty Thái Hòa vi phạm các nghĩa vụ theo Hợp đồng PNH- KEN/2011/04. Thời hạn bảo lãnh từ ngày 11/05/2011 đến hết ngày 31/12/2011.

       Xét thấy trường hợp yêu cầu trả tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng cũng tương tự như trường hợp yêu cầu trả tiền bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước đã phân tích như trên: Trong thời hạn bảo lãnh từ ngày 11/05/2011 đến hết ngày 31/12/2011, NĐ_Công ty Thanh Thảo không giao nộp bản gốc thư bảo lãnh và thư gia hạn bảo lãnh cho BĐ_Ngân hàng Xanh. Thời điểm NĐ_Công ty Thanh Thảo giao nộp bản gốc là ngày 06/01/2012 thì thư bảo lãnh và thư gia hạn bảo lãnh đã hết hiệu lực. Khái niệm xuất trình trong trường hợp này là NĐ_Công ty Thanh Thảo phải giao nộp bản gốc thư bảo lãnh và thư gia hạn bảo lãnh để nhận được sự thanh toán tiền bảo lãnh của BĐ_Ngân hàng Xanh.

       Do NĐ_Công ty Thanh Thảo chưa thực hiện đầy đủ điều kiện đã qui định trong cam kết bảo lãnh để yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh thực hiện nghĩa vụ nên BĐ_Ngân hàng Xanh từ chối thanh toán tiền bảo lãnh cho NĐ_Công ty Thanh Thảo là có cơ sở đúng qui định pháp luật. Do đó không chấp nhận việc NĐ_Công ty Thanh Thảo yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh phải trả số tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng là 18.468.310.018 đồng và tiền lãi tính từ ngày 27/12/2011 đến ngày 19/11/2014 là 4.817.952.000 đồng.

    Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của NĐ_Công ty Thanh Thảo. Về Hợp đồng PNH-KEN/2011/04 ngày 29/01/2011 ký giữa NĐ_Công ty Thanh Thảo và LQ_Công ty Thái Hòa, Hợp đồng cấp bảo lãnh số 18/2011/HĐBL-TPB.SGN ngày 05/05/2011 ký giữa BĐ_Ngân hàng Xanh và LQ_Công ty Thái Hòa có liên quan đến việc phát hành các thư bảo lãnh nhưng do các bên không yêu cầu giải quyết trong vụ án này nên không xét. Nếu có tranh chấp các bên có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác theo qui định pháp luật.

       Về án phí: NĐ_Công ty Thanh Thảo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (tính trên số tiền yêu cầu BĐ_Ngân hàng Xanh phải trả không được chấp nhận) là 179.325.119 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

        - Căn cứ điểm m Khoản 1 Điều 29, Điểm b Khoản 1 Điều 33, Điểm b Khoản 1 Điều 36, Điều 131, Điều 159, Điều 199, Điều 202, Điều 210, Điều 238, Điều 243, Khoản 1 Điều 245 của

Bộ luật Tố tụng dân sự;

        - Căn cứ Điều 294 của Bộ luật dân sự;

        - Căn cứ Điều 319 của Luật thương mại;

        - Căn cứ Khoản 6 Điều 5, Điều 18, Điều 27 Qui chế bảo lãnh ngân hàng ban hành theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Kiệt.

        - Căn cứ Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về An phí, lệ phí Tòa án;

        - Căn cứ Luật thi hành án dân sự.

        Xử:

        1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NĐ_Công ty TNHH Xây dựng Sản xuất Thanh Thảo về việc yêu cầu BĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần Xanh phải thanh toán tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng, tiền bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước và tiền lãi phát sinh tính đến ngày 19/11/2014, tổng số tiền là: 71.325.119.271 đồng (bảy mươi mốt tỉ, ba trăm hai mươi lăm triệu, một trăm mười chín ngàn, hai trăm bảy mươi mốt đồng).

        2. Về án phí: NĐ_Công ty TNHH Xây dựng Sản xuất Thanh Thảo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 179.325.119 đồng (một trăm bảy mươi chín triệu, ba trăm hai mươi lăm ngàn, một trăm mười chín đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí NĐ_Công ty

TNHH Xây dựng Sản xuất Thương mại Thanh Minh đã nộp là 82.877.000 đồng (tám mươi hai triệu, tám trăm bảy mươi bảy ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số AB/2010/00949 ngày 14-03-

2012 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X – Thành phố HCM. NĐ_Công ty TNHH Xây dựng

Sản xuất Thương mại Thanh Minh còn phải nộp thêm 96.448.119 đồng (chín mươi sáu triệu, bốn trăm bốn mươi tám ngàn, một trăm mười chín đồng) tiền án phí.

        NĐ_Công ty TNHH Xây dựng Sản xuất Thanh Thảo, BĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần Hải Hà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

        LQ_Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Thái Hòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

        Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Tên bản án

Bản số 07/2015/KDTM-ST Tranh chấp về bảo lãnh Ngân hàng

Số hiệu 07/2015/KDTM-ST Ngày xét xử 22/01/2015
Bình luận án

Tiếng Việt

English