TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG

Bản án số: 103/2017/DS-PT

Ngày: 27- 6 - 2017

V/v tranh chấp: “Hợp đồng vay tài sản”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM:

1.     Ông Nguyễn Văn Sơn - Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà;     

2.     Ông Trương Hoài Vũ – Thẩm phán;

3.      Bà Đào Thị Mai – Thẩm phán.

Bà Võ Thị Hường - Cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh An Giang - Thư ký Toà án nhân dân.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên tòa: Ông Huỳnh Minh Hương - Kiểm sát viên.

Ngày 27 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 64/2017/TLPT-DS ngày 09 tháng 5 năm 2017, về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 05/2017/DS-ST ngày 28 tháng 2 năm 2017, của Toà án nhân dân thành phố Long Xuyên bị kháng cáo.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 97/2017/QĐ-PT ngày 30 tháng 5 năm 2017, giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

Bà Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1955.

Địa chỉ cư trú: 10/18 khóm Đông Thạnh B, phường Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Tuyết: Ông Ngô Minh Thanh, sinh năm 1952.

Địa chỉ cư trú: 4C6 khóm Bình Thới 2, phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên,  Tỉnh  An  Giang (Được  ủy  quyền  theo  văn  bản  ủy  quyền  số  18,  ngày 10/01/2017)

BỊ ĐƠN:

Bà Trần Thị Hữu Hạnh, sinh năm 1959 (chết 2016).

Ông Tăng Vạn Phước, sinh năm 1959. (có mặt )

Địa chỉ cư trú: 8BE4 Nguyễn Thượng Hiền, phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên, Tỉnh  An Giang.

Anh Tăng Vạn An, sinh năm 1984.(có mặt )

Chị Tăng Ngọc Kim Thư, sinh năm 1987.( có mặt )

Địa chỉ: 8BE4 Nguyễn Thượng Hiền, phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên, tỉnh  An Giang.

Người kháng cáo ông Tăng Vạn Phước là bị đơn

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Nguyên đơn bà Lê Ngọc Tuyết trình bày: Ngày 28/04/2011 bà Trần Thị Hữu Hạnh ký nhận vay mượn của bà 75.000.000đ ( bảy mươi lăm triệu) không thể hiện lãi suất, thời hạn trả tiền . Bà Hạnh trả tiền lãi 18.000.000đ đến tháng 02/2015 thì ngưng. Do bà Hạnh chết ngày 13 tháng 2 năm 2016 nên không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả vốn, lãi. Nguyên đơn yêu cầu ông Phước là chồng bà Hạnh có nghĩa vụ liên đới trách nhiệm trả số tiền 75.000.000đ vốn, không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn ông Tăng Vạn Phước trình bày: ông là chồng bà Hạnh, chung sống từ năm 1986 đến nay, không đăng ký kết hôn, có hai con chung tên Tăng Vạn An, sinh năm 1984 và Tăng Ngọc Kim Thư, sinh năm 1987. Bà Hạnh chết ngày 13/02/2016, theo trích lục khai tử số 115/TLKS-BS, ngày 18/02/2016 do UBND phường Bình Khánh thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Do việc bà Hạnh vợ ông vay tiền của bà Tuyết ông không biết nên ông không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn Anh Tăng Vạn An, chị Tăng Ngọc Kim Thư không có ý kiến trình bày.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 05/2017/DS-ST ngày 28 tháng 2 năm 2017, của Toà án nhân dân thành phố Long Xuyên đã xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Ngọc Tuyết.

Buộc ông Tăng Vạn Phước trả cho bà Lê Ngọc Tuyết số tiền 75.000.000đ (bảy mươi lăm triệu đồng).

Đình chỉ yêu cầu tính lãi suất, yêu cầu ông Tăng Vạn An và bà Tăng Ngọc Kim Thư liên đới trách nhiệm trả tiền cho bà Lê Ngọc Tuyết.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo của các đương sự .

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 13 tháng 3 năm 2017, ông Tăng Vạn Phước có  đơn kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, vì việc vợ ông là bà hạnh vay nợ bà Tuyết ông hoàn toàn không biết. Yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và qua kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Ông Tăng Vạn Phước làm đơn kháng cáo và có nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong hạn luật định nên được chấp nhận về mặt hình thức.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, đại diện ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và bị đơn ông Tăng Vạn Phước vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

[3] Về nội tranh chấp:

Nhận thấy giữa bà Lê Ngọc Tuyết với bà Trần Thị Hữu Hạnh, ông Tăng Vạn Phước, Tăng Vạn An, Tăng Ngọc kim Thư phát sinh “ Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản”. Theo nguyên đơn bà Lê Ngọc Tuyết trình bày: Ngày 28/4/2011 bà có cho bà Hạnh vay 75.000.000đ( bảy mươi lăm triệu ) để làm vốn kinh doanh, lãi suất 2%/tháng, vay không kỳ hạn. Đến tháng 2/2015 bà Hạnh trả lãi được 18.000.000đ rồi ngưng. Ngày 29/7/2015 bà Tuyết khởi kiện yêu cầu ông Phước, bà Hạnh trả cho bà số tiền 75.000.000đ( bảy mươi lăm triệu ), yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất quy định từ ngày 28/4/2011 đến ngày Tòa án xét xử. Đối với số tiền lãi đã nhận bà đồng ý khấu trừ vào tiền lãi.

Quá trình giải quyết vụ án bà Hạnh không có văn bản trình bày ý kiến. Sau khi bà Hạnh chết, nguyên đơn tiếp tục yêu cầu chồng bà Hạnh là ông Phước và các con là Tăng Vạn An, Tăng Ngọc Kim Thư có trách nhiệm liên đới trả nợ cho bà và tính lãi theo quy định của pháp luật từ ngày 28/4/2011.

Ông Tăng Vạn Phước xác định ông và bà Hạnh sống chung với nhau từ năm 1986, không đăng ký kết hôn, có hai con chung là An và Kim Thư. Ngày 13/2/2016 bà Hạnh chết, ông Phước có nhận được số tiền do Bảo hiểm xã hội tỉnh An Giang chi trả là 173.798.000đ ( một trăm bảy mươi ba triệu đồng ). Do bà Hạnh mắc bệnh ung thư nên ông đã sử dụng số tiền này để lo trị bệnh và ma chay cho bà Hạnh và ông Phước cho rằng không biết việc vay nợ giữa bà Hạnh và bà Tuyết nên ông không đồng ý liên đới trách nhiệm trả nợ.

Tại phiên tòa sơ thẩm bà Tuyết tự nguyện rút lại một phần yêu cầu khởi kiện là không yêu cầu tính lãi và không yêu cầu anh An, chị Thư liên đới trách nhiệm trả nợ nên cấp sơ thẩm đã đình chỉ đối với phần yêu cầu này.

[4] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu:

Về việc tuân theo pháp luật của các Thẩm Phán và Thư ký Tòa án từ khi thụ lý vụ án tới thời điểm nầy thấy rằng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án , Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm; Đảm bảo đúng nguyên  tắc xét xử, thành phần Hội đồng xét xử,  sự có mặt của thành viên Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa; phạm vi xét xử phúc thẩm và thủ tục phiên tòa.

Đối với các đương sự  từ khi Tòa cấp phúc thẩm thụ lý vụ án cho đến thời điểm xét xử tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 72, Điều 73, Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án đến ngày 13/2/2016 bà Trần Thị Hữu Hạnh là bị đơn trong vụ kiện chết. Căn cứ vào khoản 1 Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền và nghĩa vụ về tài sản của họ được thì người thừa kế tham gia tố tụng”. Xác định hàng thừa kế thứ nhất của bà Hạnh gồm chồng là ông Tăng Vạn phước và hai con là Tăng Vạn An, Tăng Ngọc Kim Thư. Tuy nhiên, ngày 23/8/2016 nhưng cấp sơ thẩm không đưa ông Tăng Vạn Phước tham gia vụ án với tư cách là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà Hạnh là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ngoài ra khi bà Hạnh chết cấp sơ thẩm không điều tra làm rõ di sản của bà Hạnh chết để lại. Đề xuất hướng giải quyết căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử phúc xử: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 05/2017/DS-ST ngày 28/2/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

[5]   Xét đơn kháng cáo của ông Tăng Vạn Phước. Nội dung yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Hội đồng nhận thấy: căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và biên nhận nợ ngày 28/4/2011 (Bút lục số 08 ) bà Tuyết có cho bà Hạnh vay số tiền 75.000.000đ, ông Phước cho rằng biên nhận nợ trên không phải do bà Hạnh viết, nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh, ông có yêu cầu giám định chữ viết và chữ ký trong biên nhận, nhưng sau đó ông thay đổi không yêu cầu giám định, nên sau khi bà Hạnh chết cấp sơ thẩm đã xác định ông Phước là chồng của bà Hạnh, nên khi bà Hạnh chết, ông đã nhận số tiền trợ cấp mai táng, tuất một lần với số tiền 173.798.000 đồng, theo quyết định số 38/QĐ-BHXH ngày 01/3/2016 của Bảo hiểm xã hội tỉnh An Giang nên buộc ông Phước có trách nhiệm trả nợ. Cấp sơ thẩm không ghi nhận được ý kiến của bà Hạnh. Phía nguyên đơn cho rằng bà Hạnh vay tiền nhằm mục đích kinh doanh, nhưng không được ông Phước thừa nhận.

Do trong quá trình giải quyết vụ án bà Hạnh chết .Căn cứ khoản 1 Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 “Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền , nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng”. Xác định hàng thừa kế thứ nhất của bà Hạnh gồm: Chồng là ông Tăng Vạn Phước và hai con là Tăng Vạn An, Tăng Ngọc Kim Thư nhưng cấp sơ thẩm ra thông báo thụ lý bổ sung ngày 23/8/2016 chỉ đưa Tăng Vạn An, Tăng Ngọc Kim Thư mà không đưa ông Tăng vạn Phước tham gia vụ án với tư cách là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Hạnh là vi phạm về thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ngoài ra cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ khi chết di sản của bà Hạnh để lại gồm những gì, nếu có phải định giá trị tài sản, và các khoản chi phí và thứ tự thanh toán hợp lý theo pháp luật quy định, để nhằm làm cơ sở buộc những người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại.

Tại phiên tòa phúc thẩm ông Ngô Minh Thanh  người đại diện theo ủy quyền cho bà Lê Ngọc Tuyết xác định bà Lê Ngọc Tuyết đã đi định cư nước ngoài ( Mỹ ) từ năm 2012, mỗi năm bà Tuyết chỉ về nước một hoặc hai lần. Căn cứ vào điểm b, khoản 1 và điểm b, khoản 5, Điều 7 của Nghị quyết số: 03/2012/NQ- HĐTP. Ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “ Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại điểm b, khoản 1, Điều 7 của Nghị quyết hướng dẫn về quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS:

1. Đương sự ở nước ngoài bao gồm:

b) Đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;

Như vậy theo quy định của pháp luật thì bà Lê Ngọc Tuyết là đương sự ở nước ngoài. Nên cấp sơ thẩm thụ lý vụ án giải quyết vụ án là không đúng thẩm quyền, vi phạm nghiêm trọng về mặt thủ tục tố tụng dân sự.

Mặc khác theo các bút lục ( 146, 150, 152 ) hồ sơ thể hiện biên bản tiến hành hòa giải không được thể hiện người tiến hành tố tụng; Thẩm phán – chủ trì phiên hòa giải : Hoàng Ngọc Linh, Thư ký là Nguyễn Trương Phi. Nhưng kết luận và ký tên vào biên bản Thẩm phán- chủ trì phiên hòa giải là Trần Văn Phương, Thư Ký lại là Nguyễn  Thị Minh Trang là vi phạm về thủ tục tố tụng dân sự nghiêm trọng.

Do vậy cần hủy bản án sơ thẩm và giữ hồ sơ lại Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

[6]Về án phí: Do hủy bản án sơ thẩm nên ông Tăng Vạn Phước không phải chịu án phí phúc thẩm. Đối với số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà bà Lê Ngọc Tuyết đã tạm nộp sẽ được xem xét giải quyết lại ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT  ĐỊNH:

Áp dụng khoản 3 Điểu 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Tăng Vạn Phước.

2. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 05/ 2017/DS-ST ngày 28/2/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên; và giữ hồ sơ lại Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

3. Về án phí : Ông Tăng Vạn Phước được nhận lại 300.000đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 0010746 ngày 13 tháng 3 năm 2017 của chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên. Đối với số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà bà Lê Ngọc Tuyết đã tạm nộp sẽ được xem xét giải quyết lại ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

THẨM PHÁN -CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

 

 

 

Cao Minh Lễ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tên bản án

Bản án: số 103/2017/DS-PT ngày 27/06/2017 của TAND tỉnh An Giang

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án