TÒA ÁN NHÂN DÂNTỈNH QN

Bản án số:16/2014/KDTM-ST Ngày:27/08/2014

V/v: “Tranh chấp giữa các thành viên

của công ty”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

------------------

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QN 

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Bà Nguyễn Thị K- Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

2. Ông Hà Văn T - Hội thẩm nhân dân

3. Ông Nguyễn Thành N - Hội thẩm nhân dân

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa:Ông Trần Minh T- Cán bộ TAND tỉnh QN

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh QN tham gia phiên tòa:Ông Nguyễn Quang H - Kiểm sát viên.

Hôm nay, ngày 27 tháng 8 năm 2014, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh QN xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm thụ lý số 16/2013/KDTM-ST ngày 04 tháng 10 năm 2013 về việc “Tranh chấp giữa các thành viên công ty”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2014/QĐST-KDTM ngày 21 tháng 02 năm 2014, giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

Ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, sinh năm 1951.

Địa chỉ: 20 đường 12, phường 4, quận GV, thành phố HCM.

Đại diện theo ủy quyền: ông Đặng Anh Khoa, sinh năm 1951.

Địa chỉ: 100 TP, thành phố ĐN. (Giấy ủy quyền ngày 09/12/2013).

BỊ ĐƠN:

Ông BĐ_Trần Văn Phương.

Đại diện theo ủy quyền: ông Lê Văn Thọ, sinh năm 1975. (Văn bản ủy quyền ngày

06/12/2013).

Ông BĐ_Phương, ông Thọ cùng địa chỉ: số 12-14 đường 09 A, khu dân cư TS, ấp 4, xã

BH, huyện BC, thành phố HCM.

NGỪỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN: 

1.   Ông LQ_Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1956.

Địa chỉ: 36 PBP, phường 12, quận TB, thành phố HCM.

2.   Ông LQ_Lê Văn Hiếu, sinh năm 1968.

Địa chỉ: Khối 2, thị trấn VĐ, huyện ĐB, tỉnh QN

3.   Ông LQ_Trần Hải Đăng, sinh năm 1977.

Địa chỉ: 45B TS, phường TB, quận HC, thành phố ĐN.

4.   Ông LQ_Trần Văn Châu, sinh năm 1977.

Địa chỉ: 96 TH, phường TB, quận HC, thành phố ĐN.

5.   LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An(là người có yêu cầu độc lập).

Địa chỉ: số 12-14 đường 09A, khu dân cư TS, ấp 4, xã BH, huyện BC, thành phố HCM. Đại diện theo pháp luật: Ông BĐ_Trần Văn Phương - Chức vụ: Tổng Giám đốc. Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thành Trung, sinh năm 1976.

Địa chỉ: 35 tổ 4, TL, HM, thành phố HN(Giấy ủy quyềnngày 17/3/2014).

6.   LQ_Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN.

Địa chỉ: số 02 TQC, thành phố TK, tỉnh QN.

Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Kim Ngân - Chức vụ: Trưởng phòng.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Vũ Mộng Huyền - Chức vụ: Chuyên viên. (Giấy ủy quyền ngày 14/4/2014).

NHẬN THẤY:

Theo đơn khởi kiện ngày 22/7/2013 và đơn khởi kiện bổ sung ngày 11/11/2013 của nguyên đơn, cũng như trình bày của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa như sau:

Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ được thành lập trên cơ sở chuyển đổi hình thức tổ chức từ Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An Anvà được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cấp Giấy đăng ký chứng nhận kinh doanh số 4000501099 ngày 27/10/2010. Đại Hội đồng cổ đông Công ty đã bầu ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị, ông LQ_Lê Văn Hiếu làm Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị, 4 thành viên Hội đồng quản trị là ông LQ_Trần Văn Châu, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Nguyễn Văn Thành và ông BĐ_Trần Văn Phương làm đại diện cho cổ đông LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An. Để Công ty hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty,Hội đồng quản trị đã bổ nhiệm ông BĐ_Trần Văn Phương làm Tổng Giám đốc Công ty, tất cả mọi hoạt động điều hành của Công ty do Tổng Giám đốc thực hiện.

Trong quá trình quản lý, điều hành ông BĐ_Phương đã vi phạm hàng loạt các quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty như: Vô hiệu hóa các quyết định của Hội đồng quản trị; tự ý thực hiện theo ý chí cá nhân, không theo sự chỉ đạo của Hội đồng quản trị; không báo cáo cho Hội đồng quản trị theo tiến độ thực hiện công việc; tài chính thu, chi không công khai, minh bạch và rõ ràng; chứng từ thu chi sai nguyên tắc; không tuân thủ hoạt động của Công ty, không giao nhiệm vụ cho cán bộ được Hội đồng quản trị bổ nhiệm, tự ý sử dụng người nhà làm việc; tự ý phát hành văn bản kêu gọi huy động vốn mà không thuộc chức năng của Tổng Giám đốc và không thông qua Hội đồng quản trị. Doông BĐ_Phương đã vi phạm các vấn đề nêu trên nên ngày 28/7/2011 Hội đồng quản trị đã có cuộc họp và thống nhất miễn nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc đối với ông BĐ_Phương và bổ nhiệm ông LQ_Trần Văn Châu làm Tổng Giám đốc mới của Công ty. Chủ tịch Hội đồng quản trị đã thay mặt Hội đồng quản trị ký Quyết định số 10/QĐ-HĐQT  ngày  01/8/2011  miễn  nhiệm  chức  vụ  Tổng  Giám  đốc  đối  với  ông BĐ_Phươngvà có Quyết định số 09/QĐ-HĐQT ngày 01/8/2011 bổ nhiệm ông LQ_Trần Văn Châu làm Tổng Giám đốc mới của Công ty và là người đại diện theo pháp luật, thay ông BĐ_Phương. Việc Hội đồng quản trị họp ngày 28/7/2011 thống nhất quyết định miễn nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ đối với ông BĐ_Trần Văn Phương và bổ nhiệm ông LQ_Trần Văn Châu làm Tổng Giám đốc Công ty là phù hợp với Điểm h Khoản 2 Điều 108 Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty nhưng do ông BĐ_Phương chiếm giữ con dấu nên chưa đổi Giấy phép đăng ký kinh doanh làm gì. Sau khi có quyết định miễn nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc đối với ông BĐ_Phương, từ đó đến nay ông BĐ_Phương không bàn giao hồ sơ, tài liệu, con dấu của Công ty cho Tổng Giám đốc mới, làm cho Công ty ngưng hoạt động, dự án bị Ủy ban nhân dân tỉnh QN thu hồi. Hiện nay không có con dấu để quyết toán, xuất hóa đơn.... cho bên nhận dự án. Ngày 10/12/2012, Hội đồng quản trị có họp giải quyết chuyển dự án cho đối tác khác tại Khu đô thị số 7A thuộc Khu đô thị mới ĐN. Hội đồng quản trị yêu cầu ông BĐ_Phương phải bàn giao con dấu cho Hội đồng quản trị quản lý nhưng ông BĐ_Phương không thực hiện như ý kiến tại cuộc họp này đặt ra. Chủ tịch Hội đồng quản trị đã nhiều lần yêu cầu ông BĐ_Phương bàn giao hồ sơ, tài liệu, con dấu cho Công ty nhưng ông BĐ_Phương cố tình không bàn giao làm cho Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ ngưng hoạt động, gây thiệt hại lớn đến quyền lợi và lợi ích của các cổ đông của Công ty. Nên ngày 22/7/2013 ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ nhân danh Công ty khởi kiện ông BĐ_Phương nhưng việc ông NĐ_Kim nhân danh Công ty khởi kiện ông BĐ_Phương là không đúng theo quy định của pháp luật nên ngày 08/11/2013  (Công văn đến ngày

11/11/2013)ông NĐ_Kim có đơn khởi kiện bổ sung, ông NĐ_Kim khởi kiện ông BĐ_Phương với tư cách cổ đông và là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông BĐ_Phương phải trả lại con dấu của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ cho Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ để có dấu hoạt động theo quy định của pháp luật và Điều lệ mới của Công ty. Tại bản tự khai lần thứ 3 ngày 02/01/2014 nguyên đơn yêu cầu ông BĐ_Phương phải hoàn trả cho Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ số tiền các cổ đông đã đóng góp và sau khi trừ chi phí vào dự án còn lại số tiền là 2.438.127.713 đồng mà ông BĐ_Phương hiện đang giữ, tuy nhiên vào bản tự khai lần thứ 4 ngày 20/02/2014 nguyên đơn đã rút yêu cầu này và chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông BĐ_Phương phải trả lại con dấu của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ cho Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ để có dấu hoạt động theo quy định của pháp luật và Điều lệ mới của Công ty.

Đối với yêu cầu độc lập của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An(sau đây gọi tắt

làLQ_Công ty An An) về yêu cầu hủy Biên bản cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày

28/7/2011, cuộc họp này có 2 nội dung: Thay đổi ông BĐ_Phương chức danh Tổng Giám đốc

- đại diện theo pháp luật cũ chuyển sang đại diện pháp luật mới là ông LQ_Trần Văn Châu và sửa đổi Điều 6 của Điều lệ Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ vì thay đổi người đại diện theo pháp luật. Đối với yêu cầu này nguyên đơn có ý kiến như sau: Biên bản Đại hội đồng cổ đông với 2 nội dung như trên, trong đó miễn nhiệm ông BĐ_Trần Văn Phương chức danh Tổng Giám đốc sang ông LQ_Trần Văn Châu chức vụ Tổng Giám đốc là không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại Điều 96 của Luật Doanh nghiệp mà thẩm quyền này thuộc về Hội đồng quản trị theo quy định tại Điều 108 Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc Đại hội đồng cổ đông đã họp thống nhất sửa đổi Điều 6 của Điều lệ Công ty vì thay đổi người đại diện theo pháp luật là ông LQ_Trần Văn Châu là đúng với Điều 96 của Luật Doanh nghiệp, cho nên Biên bản Đạihội đồng cổ đông ngày 28/72011 về việc sửa đổi Điều 6 của Điều lệ là hợp lệ, phù hợp với quy định của pháp luật.

Biên bản cuộc họp Hội đồng quản trị ngày 28/7/1011 miễn nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc Công ty đối với ông BĐ_Phương và bổ nhiệm ông LQ_Châu giữ chức vụ Tổng Giám đốc là đúng với quy định tại Điều 108 của Luật Doanh nghiệp, nên việc LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An yêu cầu hủy bỏ biên bản này là trái pháp luật.

Theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ hướng dẫnchi tiết thi hành một số Điều của Luật Doanh nghiệp thì Nghị quyết của Hội đồng quản trị có hiệu lực thi hành kể từ ngày được thông qua hoặc từ ngày có hiệu lực được ghi rõ trong Nghị quyết, Quyết định đó. Căn cứ Điều 27 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP của Chính phủ như đã nêu trên thì ông BĐ_Phương không còn là Tổng Giám đốc và không phải là người đại diện theo pháp luật và ông LQ_Châu là Tổng Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật của Công ty kể từ ngày 01/8/2011.

Cũng tại đơn yêu cầu độc lập LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An cho rằng không nhận được bất kỳ văn bản Đại hội cổ đông, của Hội đồng quản trị và các quyết định miễn nhiệm, bổ nhiệm nêu trên nhưng nguyên đơn khẳng định tất cả các văn bản nêu trên LQ_Công ty An An đều nhận đầy đủ, tại cuộc họp Hội đồng quản trị ngày 28/7/2011 LQ_Công ty An An ủy quyền cho ông Trần Tuấn Kiệt tham dự. Nếu LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An không nhận được quyết định miễn nhiệm Tổng Giám đốc với ông BĐ_Phương thì tại sao ngày

23/8/2011 LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An có Công văn số 42/2011/TĐV phản đối việc miễn nhiệm Tổng Giám đốc đối với ông BĐ_Phương. Việc LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An cho rằng không nhận được tất cả Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 28/7/2011 và Quyết định miễn nhiệm Tổng Giám đốc đối với ông BĐ_Phương ngày 01/8/2011 là không có cơ sở và sau khi nhận nếu không đồng ý thì trong vòng 90 ngày có khiếu nại theo Điều 106 của Luật Doanh nghiệp nhưng đến nay mới yêu cầu Tòa án giải quyết là hết thời hiệu khởi kiện.

Đối với yêu cầu xem xét, hủy bỏ các văn bản liên quan đến việc thành lập Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ, bao gồm hợp đồng chuyển nhượng vốn đối với các ông; NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, LQ_Nguyễn Văn Thành, LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Hải Đăng và LQ_Trần Văn Châu, nguyên đơn có ý kiến như sau: Ngày 30/9/2010, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An có lập Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần cho các ông có tên nêu trên, sau đó LQ_Công ty An An đã làm đơn khởi kiện 5 ông nêu trên tại Tòa án nơi mà họ đang cư trú, hiện nay LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An đã rút đơn khởi kiện nên các Tòa án đã ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Mặt khác, tại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do LQ_Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cấp cho LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An lần thứ 9 ngày 16/3/2010 thì vốn điều lệ của LQ_Công ty là 100.000.000.000 đồng (một trăm tỷ đồng), nếu họ chuyển nhượng cho các ông NĐ_Kim, LQ_Thành, LQ_Hiếu, LQ_Đăng, LQ_Châu 73.000.000.000 đồng (bày mươi ba tỷ đồng) là hoàn toàn không đúng với số tiền mà họ đã khởi kiện tại các Tòa án. Các hợp đồng chuyển nhượng này theo ông BĐ_Phương tại Đại hội đồng cổ đông ngày 13/11/2010 là nhằm mục đích đủ điều kiện chuyển đổi doanh nghiệp thànhCông ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ chứ không có thật.

Đối  với  yêu  cầu  thu  hồi  và  hủy  bỏ  Giấy  chứng  nhận  đăng  ký  kinh  doanh  số 400005011099 do LQ_Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cấp ngày 27/10/2010 thì nguyên đơn có ý kiến như sau: Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An được thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 3304000315 do LQ_Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cấp ngày 28/7/2008. Ngày 21/02/2008, tại Văn phòng Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư Địa ốc An An tại Đà Nẵng tiến hành lập biên bản hợp tác đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khai thác quỹ đất dự án Khu đô thị số 7A, thuộc Khu đô thị mới ĐN do Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư Địa ốc An An làm chủ đầu tư, thành phần tham dự gồm: Ông BĐ_Trần Văn Phương - Giám đốc Công ty, các ông LQ_Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đặng Vĩnh, Phan Hoàng Phú Lâm, LQ_Trần Hải Đăng và Nguyễn Hà Hải Băng – đều là cổ đông. Sau khi trao đổi, bàn bạc các bên thống nhất cùng góp vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Khu đô thị số 7A, thuộc Khu đô thị mới ĐN do Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư Địa ốc An An làm chủ đầu tư. Theo nội dung cuộc họp (có biên bản cuộc họp kèm theo) các bên thống nhất tỷ lệ góp vốn như sau: Các ông BĐ_Trần Văn Phương, LQ_Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đặng Vĩnh có trách nhiệm đóng góp cổ phần tương đương 51% tổng chi phí đầu tư dự án trên (phần vốn góp này chia đều cho 3 thành viên). Các ông Phan Hoàng Phú Lâm, LQ_Trần Hải Đăng và bà Nguyễn Hà Hải Băng có trách nhiệm đóng góp cổ phần tương đương 49% tổng chi phí đầu tư dự án trên (phần vốn góp này chia đều cho 3 thành viên), biên bản cuộc họp quy định như trên nhưng các bên chưa ai góp cổ phần vào Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư Địa ốc An An. Ngày 28/7/2008 Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An được thành lập và tiếp nhận làm chủ đầu tư dự án Khu đô thị mới số7A ĐN thay cho Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư Địa ốc An An.

Vào ngày 01/10/2008  Công ty TNHH  Một thành viên Địa ốc An An , do ông BĐ_Trần Văn Phương đại diện (Bên A) và các ông LQ_Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đặng Vĩnh, ông LQ_Lê Văn Hiếu(ông LQ_Hiếu thay ông Phan Hoàng Phú Lâm),LQ_Trần Hải Đăng và bà Nguyễn Thu Thảo(bà Thảo thay bà Nguyễn Hà Hải Băng -Bên B) ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng này có nội dung sau: Tiếp nối sự hợp tác trước đây, nay hai bên cùng xem xét dự án đầu tư 16,5 ha tại Khu đô thị số 7A, thuộc Khu đô thị mới ĐN(QN)do Công ty TNHH Một thành viênĐịa ốc An An làm chủ đầu tư, hai bên bàn bạc và thống nhất một số nội dung sau: Bên A đồng ý tiếp nhận bên B (gồm 5 người nêu trên) làm cổ đông góp vốn để cùng hợp tác đầu tư dự án 16,5ha tại Khu đô thị số7A, thuộc Khu đô thị mới ĐN mà hiện nay bên A đang là chủ đầu tư. Bên A và bên B được gọi chung là nhóm cổ đông sáng lập (gồm 6 cổ đông). Tỷ lệ góp vốn: Bên A (LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An) sẽ nắm giữ tỷ lệ 17% tổng giá trị dự án nêu trên, bên B đóng góp theo năng của lực từng người, cụ thể: ông LQ_Thành góp 17% tổng giá trị dự án, ông Vĩnh cam kết đóng góp để nắm giữ tỷ lệ 17% tổng giá trị đầu tư dự án, ông LQ_Hiếu cam kết đóng góp vốn để nắm giữ tỷ lệ 16,33% tổng giá trị đầu tư dự án, ông LQ_Trần Hải Đăng cam kết đóng góp vốn để nắm giữ tỷ lệ 16,33% tổng giá trị đầu tư dự án, bà Nguyễn Thu Thảo cam kết đóng góp vốn để nắm giữ tỷ lệ 16,33% tổng giá trị đầu tư dự án nêu trên. Ngoài ra hợp đồng còn quy định về tiến độ góp vốn, phân chia lợi nhuận, thiệthại. Ngày 30/5/2010 ông BĐ_Phương trên danh nghĩa Tổng Giám đốc Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An báo cáo tài chính cho các cổ đông đã góp vốn gồm: LQ_Công  ty  cổ  phần  Tập  đoàn  An  An  do  ông  BĐ_Phương  làm  đại  diện  đã  góp 1.500.000.000 đồng, ông LQ_Thànhgóp 1.500.000.000 đồng, ông Vĩnh góp 1.220.000.000 đồng, ông LQ_Hiếu, ông LQ_Đăng, bà Thảo mỗi người góp 500.000.000 đồng, tổng cộng là 5.120.000.000 đồng. Ngày 10/8/2010 Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An họp các cổ đông và ông BĐ_Phương đề nghị các cổ đông chuyển nhượng lại cho ông BĐ_Phương mỗi thành viên là 2% cổ phần (1% Cổ phần được tính trị giá là 550.000.000 đồng). Như vậy, tại thời điểm này các cổ đông ông LQ_Thành, ông Vĩnh, ông LQ_Đăng, bà Thảo và ông LQ_Hiếu đã chuyển nhượng cho ông BĐ_Phương 2% cổ phần của mỗi người và ông BĐ_Phương có trách nhiệm trả cho mỗi cổ đông số tiền là 1.100.000.000 đồng, số tiền này được nhập vào số cổ phần mà các cổ đông đã đóng góp và sở hữu. Như vậy, tỷ lệ góp vốn đã thay đổi: LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An do ông BĐ_Phương đại diện nắm giữ tỷ lệ 27%, ông Vĩnh, ông LQ_Thành mỗi người nắm giữ tỷ lệ 15%, ông LQ_Hiếu, ông LQ_Đăng, ông LQ_Châu(thay bà Thảo) mỗi người nắm giữ 14%. Ngày 30/9/2010 họp Đại hội đồng cổ đông để chuyển đổi từ Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An trở thành Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ, gồm có các cổ đông: LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An- do ông BĐ_Phương đại diện góp tỷ lệ cổ phần là 27%, ông LQ_Thành góp tỷ lệ cổ phầnlà 15%, ông LQ_Đăng, ông LQ_Hiếu, ông LQ_Châu mỗi người góp tỷ lệ cổ phần là 14%. Căn cứ vào số vốn đăng ký của Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An chuyển sang để lập thủ tục chuyển đổi từ Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An thành Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ theo yêu cầu của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN và Đại hội đồng cổ đông đã bầu ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt làm Chủ tịch Hội đồng quản trị, ông BĐ_Trần Văn Phương làm Tổng Giám đốc. Cũng trong ngày 30/9/2010 các bên họp cổ đông sáng lập để thỏa thuận một số nguyên tắc hoạt động của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ để thống nhất một số nội dung, cụ thể là: ông NĐ_Kim thay ông Vĩnh tham gia vào Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ. Mọi phần vốn góp trước đây, quyền lợi của ông Vĩnh đã chuyển giao cho ông NĐ_Kim. Ông LQ_Châu sẽ thay bà Thảo. Các bên đã xác định cổ phần cổ phần do các bên đã góp như sau:

-   Ông LQ_Nguyễn Văn Thành đăng ký mua 375.000 cổ phần, thành tiền 3.750.000.000 đồng, đã góp 2.453.537.426 đồng, còn nợ 46.462.574 đồng.

-   Ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt đăng ký mua 375.000 cổ phần, thành tiền 3.750.000.000 đồng, đã góp 2.300.000.000 đồng, còn nợ 1.430.000.000 đồng.

-   Ông LQ_Lê Văn Hiếu đăng ký mua 375.000 cổ phần, thành tiền 3.750.000.000 đồng, đã góp 1.600.000.000 đồng, còn nợ 2.150.000.000 đồng.

-   Ông LQ_Trần Hải Đăng đăng ký mua 350.000 cổ phần, thành tiền 3.500.000.000

đồng, đã góp 1.800.000.000 đồng, còn nợ lại 1.700.000.000 đồng.

-   Ông LQ_Trần Văn Châu đăng ký mua 350.000 cổ phần, thành tiền 3.500.000.000 đồng, đã góp 1.800.000.000 đồng, còn nợ lại 1.700.000.000 đồng.

Như vậy cả 5 thành viên nói trên đăng ký mua tổng cộng 1.700.000 cổ phần, thành tiền

17.000.000.000 đồng, đã góp 9.973.537.426 đồng, còn nợ lại 7.026.462.574 đồng.

Ngày 30/9/2010 và ngày 18/10/2010 họp các cổ đông Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An Anđể thống nhất đổi tên từ Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An thành Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ, tỷ lệ góp vốn thay đổi, đồng thời bầu các chức danh: Ông NĐ_Kim giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị, ông BĐ_Phương giữ chức vụ Giám đốc điều hành, ông LQ_Nguyễn Văn Thành giữ chức vụ Phó Giám đốc điều hành, ông LQ_Lê Văn Hiếu làm Trưởng ban giám sát. Như vậy, việc chuyển đổi từ Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An Anthành Công ty cổ phần Địa ốcAn An Nam Kỳ từ thời điểm này ông NĐ_Kim là Chủ tịch Hội đồng quản trị, ông BĐ_Phương là Tổng Giám đốc tiến hành lập thủ tục chuyển đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp. Việc chuyển đổi đã hoàn tất thủ tục, Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ kế thừa quyền và nghĩa vụ của Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An. Ngày 27/10/2010 LQ_Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty cổ phần số 4000501099 (đăng ký lần đầu), vốn điều lệ là 25.000.000.000 đồng. Tại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nêu trên các cổ đông sáng lập đã đăng ký mua cổ phần như sau: LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An - đại diện là ông BĐ_Phương mua 675.000 cổ phần, thành tiền là 6.750.000.000 đồng, tỷ lệ là 27%;ông LQ_Thành mua 375.000 cổ phần, thành tiền 3.750.000.000 đồng, tỷ lệ 15%;ông NĐ_Kim mua 375.000 cổ phần, thành tiền 3.750.000.000đồng,tỷlệ15%;ông LQ_Hiếu mua375.000cổphần, thành tiền 3.750.000.000 đồng, tỷ lệ 15%; ông LQ_Đăng mua 350.000 cổ phần, thành tiền 3.750.000.000 đồng, tỷ lệ 14%; ông LQ_Châu mua 350.000 cổ phần ,thành tiền 3.750.000.000đồng, tỷ lệ 14% nhưng thực tế các cổ đông nói trên đã góp như sau:ông NĐ_Kim góp 2.320.000.000 đồng, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An do ông BĐ_Phương đại diện góp 1.772.070.228 đồng, ông LQ_Thành góp 2.600.000.000 đồng, ông LQ_Hiếu góp 1.600.000.000 đồng, ông LQ_Đăng góp 1.800.000.000 đồng, ông LQ_Châu góp 1.800.000.000 đồng, tổng cộng đã góp 11.892.070.228 đồng. Ngày 13/11/2010 tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông và họp Hội đồng quản trị(có lập biên bản), nội dung của hai cuộc họp này xác nhận vốn góp, xem xét vấn đề tài chính và kế hoạch triển khai của Công tyvề xác định vốn góp thực tế và yêu cầu các bên góp thêm, Đại hội đồng cổ đông thống nhất mức vốn góp giai đoạn 1 là 14.533.333.333 đồng, tỷ lệ phân bổ như sau: Ông NĐ_Kim đã góp 2.320.000.000 đồng, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An đã góp 1.772.070.228 đồng, còn phải góp thêm 1.641.263.105 đồng, ông LQ_Thành đã góp 2.600.000.000 đồng, còn phải góp thêm 1.000.000.000 đồng, ông LQ_Hiếu đã góp 1.600.000.000 đồng, ông LQ_Đăng đã góp 1.800.000.000 đồng, ông LQ_Châu đã góp 1.800.000.000 đồng. Như vậy số tiền đã góp là 11.892.070.228 đồng, ông LQ_Thành phải góp thêm 1.000.000.000 đồng, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An phải góp thêm1.641.263.105 đồng. Sau Đại hội đồng cổ đông ngày 13/11/2010 thì LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An đã góp thêm 570.000.000, còn nợ 1.071.263.105 đồng, ông LQ_Thành đã góp thêm 400.000.000 đồng, còn nợ 600.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền 6 cổ đông thực góp giai đoạn 1 là 12.862.070.228 đồng. Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ ra đời trên cơ sở chuyển đổi hình thức tổ chức từ Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An. Ngày 27/10/2010 LQ_Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh doanh nghiệp số 4000501099. Vốn điều lệ là 25.000.000.000 đồng nhưng thực tế các cổ đông đã góp là12.862.070.228 đồng. Các cổ đông không có giả mạo hoặc không có bất kỳ hành vi gian dối nào như LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An đã nêu tại đơn yêu cầu độc lập.

Đối với yêu cầu hủy bỏ các Biên bản Đại hội đồng cổ đông từ ngày30/9/2010 đến nay, nguyên đơn có ý kiến như sau: Từ ngày 30/9/2010 đến nay Công ty đã họp nhiều cuộc họp Đại hội đồng cổ đông và họp Hội đồng quản trị, trong nhiều biên bản Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị đều có chữ ký của ông BĐ_Phương đại diện cho LQ_Công ty An An, các cuộc họp này là hợp pháp, đúng Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty nên yêu cầu của LQ_Công ty An An hủy bỏ tất cả các biên bản Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị là trái pháp luật nên không thể chấp nhận.

Việc LQ_Công ty An An cho rằng họ không nhận được giấy triệu tập các cuộc Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và yêu cầu nguyên đơn cung cấp giấy triệu tập Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị từ ngày 30/9/2010 đến nay, nguyên đơn có ý kiến: Các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị đều có ông BĐ_Phương đại diện cho LQ_Công ty An An hoặc ủy quyền cho ông Trần Tuấn Kiệt tham gia ký tên và được triệu tập hợp lệ thông qua bưu điện (có các giấy chuyển phát nhanh chứng minh). Cáccuộc họp khác vắng mặt người đại diện của cổ đông LQ_Công ty An An đều thực hiện theo đúng Luật Doanh nghiệp vàĐiều lệ Công ty, đơn cử cuộc họp ngày 01/10/2013 ông BĐ_Phương đại diện cho LQ_Công ty An An tham gia cuộc họp và ký vào biên bản và thừa nhận mình là cổ đông. Vì vậy, việc LQ_Công ty An An yêu cầu hủy tất cả các biên bản Đại hội đồng cổ đông và biên bản họp Hội đồng quản trị là không có cơ sở. Tất cả các giấy tờ, tài liệu và hồ sơ của Công ty do ông BĐ_Phương nguyên Tổng Giám đốc, sau khi miễn nhiệm chức Tổng Giám đốc Công ty từ ngày 01/8/2011 đến nay ông BĐ_Phương không bàn giao tài liệu, hồ sơ và con dấu của Công ty nên không có sổ công văn đi và công văn đến cung cấp cho Tòa và thực tế giấy triệu tập và các tài liệu kèm theo gửi cho các cổ đông không có quy định phải lưu trữ tại Công ty. Xét thấy toàn bộ yêu cầu độc lập của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An là không có căn cứ, đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu độc lập của LQ_Công ty An An.

Theo trình bày của bị đơn ngày 23/10/2013, bản tự khai của đại diện theo ủy quyền bị đơn ngày 31/3/2014 và tại các văn bản có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, như sau:

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu ông BĐ_Trần Văn Phương phải trả lại con dấu của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ cho Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ thì bị đơn không chấp nhận vì không có cơ sở pháp lý vì tại Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 28/7/2011 (do nguyên đơn cung cấp và Tòa án đã đánh số bút lục từ số 12 đến số 15) ông Trần Tuấn Kiệt được LQ_Công ty An An ủy quyền dự họp và khi biểu quyết việc miễn nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc đối với ông BĐ_Phương và bổ nhiệm ông LQ_Trần Văn Châu, các cổ đông khác đều biểu quyết thông qua, riêng ông Kiệt không biểu quyết thông qua và nội dung cuộc họp gồm có 4 trang giấy và cuối biên bản có dòng chữ ông Kiệt ghi “Kiệt có ký từng trang văn bản”, tuy nhiên các trang biên bản dược đánh số bút lục 12 đến 14 hoàn toàn không có chữ ký của ông Kiệt, do đó khả năng nội dung biên bản đã được người nắm giữ và cung cấp cho Tòa án đã cố tình thay đổi nội dung văn bản tại 3 số bút lục nêu trên, cho nên văn bản này không có giá trị pháp lý, không thể xem làchứng cứ chứng minh theo quy định của pháp luật tố tụng. Đề nghị Tòa án yêu cầu nguyên đơn cung cấp bản gốc của văn bản trên. Đối với các Quyết định số 10/QĐ-HĐQT ngày 01/8/2011 về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật từ ông Nguyên Văn Khải sang ông LQ_Trần Văn Châu, Quyết định số 10/QĐ-HĐQT ngày 01/8/2011 về việc miễn nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc đối với ông BĐ_Phương kể từ ngày 01/8/2011, Quyết định số 09/QĐ-HĐQT ngày 01/8/2011 của Hội đồng quản trị về việc bổ nhiệm ông LQ_Trần Văn Châu làm Tổng Giám đốc kể từ ngày 01/8/2011, các Quyết định này đều căn cứ vào Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 28/7/2011, tuy nhiên, như đã phân tích trên: Nội dung Biên bản họp ngày 28/1/2011 nêu trên không có giá trị pháp lý cho nên nội dung các quyết định miễn nhiệm, bổ nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc đều không có giá trị buộc ông BĐ_Phương thực hiện. Đối với Quyết định số 08/QĐ-ĐHĐCĐ ngày01/8/2011 của Đại hội đồng cổ đông về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật của Công ty và sửa đổi Điều 6 của Điều lệ Công ty An An Nam Kỳ. Theo nội dung quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 17 Thông tư số 01/2013/TTTKHĐT ngày 15/4/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì đối với trường hợp thay đổi người đại diện theo pháp luật làm thay đổi nội dung Điều lệ Công ty thì nội dung thay đổi phải được thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, trường hợp này tại Điểm b Khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệp cũng quy định “Đối với quyết định.... sửa đổi, bổ sung Điều lệCông ty... thì phải được số cổ đông đại diện ít nhất 15% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp thuận”. Nội dung thể hiện tại Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông ngày 28/7/2011 (BL số 16 và 17) chỉ có 5 cổ đông là ông LQ_Thành, ông NĐ_Kim, ông LQ_Hiếu, ông LQ_Đăng và ông LQ_Châu, đại diện cho 73% cổ phần bỏ phiếu thông qua, riêng LQ_Công ty An An đại diện cho 27% cổ phần không bỏ phiếu thông qua. Như vậy, nội dung thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 28/1/2011 đã không đủ tỷ lệ 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp thuận, hơn nữa trong Quyết định số 08ngày 01/8/2011 của Đại hội đồng cổ đông chỉ quyết định thay đổi Điều 6 của Điều lệ của Công ty chứ không có nội dung Quyết định sửa đổi Điều 25 của Điều lệ Công ty. Do đó, Quyết định số 08 cũng không có giá trị pháp lý, nếu có thì cũng không đủ cơ sở để thay đổi chức danh Tổng Giám đốc trong Điều lệ Công ty đối với ông BĐ_Trần Văn Phương. Do các văn bản nêu trên không có giá trị pháp lý nên căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 4000501099 do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cấp ngày 21/10/2010 và căn cứ vào Điều lệ của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ thì cho đến thời điểm này người đại diện theo pháp luật của Công ty vẫn là ông BĐ_Trần Văn Phương. Vì vậy, theo quy định tại Điều 36 Luật Doanh nghiệp thì ông BĐ_Phương vẫn là người chịu trách nhiệm trong việc quản lý sử dụng con dấu doanh nghiệp và theo quy định tại Khoản 3 Điều 106 Luật Doanh nghiệp thì biên bản họp Đại hội đồng cổ đông phải được gửi đến tất cả các cổ đông trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bế mạc cuộc họp nhưng cho đến thời điểm hiện nay ông BĐ_Phương và LQ_Công ty An An không nhận được Biên bản họp Đạihội đồng cổ đôngngày 28/1/2011 nên ông BĐ_Phương không thể thực hiện quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ các quyết định liên quan trong thời hạn pháp luật cho phép theo quy định tại Điều 107 Luật Doanh nghiệp. Cho nên bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn và yêu cầu Tòa án xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, LQ_Nguyễn Văn Thành, LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Hải Đăng và LQ_Trần Văn Châu và không thống nhất yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An.

Tại các văn bản có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi và nghĩavụ liên quan LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An Anđồng thời là người có đơn yêu cầu độc lập vào ngày 19/11/2013 và tại phiên tòa trình bày, như sau:

Tiền thân của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ là Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An(chủ sở hữu vốn điều lệ 25 tỷ của Công ty TNHH Một thành viênAn An là của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An, trước đây là của Công ty Đầu tư Tư vấn Địa ốc An An), cho nên với tư cách là chủ sở hữu LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An ký chuyển nhượng cổ phần cho 5 ông đã nêu trên. Lý do chuyển nhượng là để đủ điều kiện chuyển đổi doanh nghiệp từ Công ty TNHH sang Công ty cổ phần, ngay sau khi có Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì các bên xảy ra xung đột và không góp vốn theo hợp đồng chuyển nhượng nên LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng vốn và hủy Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Sau khi xảy ra xung đột các bên chưa bao giờ ngồi lại với nhau, Hội đồng quản trị chưa bao giờ họp và không có ra quyết định nào nên việc một nhóm cổ đông tự ý ban hành các văn bản trên là không đúng, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An chưa nhận được các văn bản trên nên không thể thực hiện quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ các quyết định liên quan trong thời hạn pháp luật cho phép theo quy định tại Điều 107 Luật Doanh nghiệp. Do đó yêu cầu hủy các Quyết định, biên bản họp sau thời điểm ngày 30/9/2010 (là ngày ký hợp đồng chuyển nhượng). Đồng thời, đề nghị hủy bỏ Biên bản cuộc họp Đại hội đồng cổ đông và Biên bản họp Hội đồng quản trị cùng ngày 28/7/2011; Quyết định số 08 ngày 01/8/2011 của Đại hội đồng cổ đông thay đổi ông BĐ_Trần Văn Phương bằng ông LQ_Trần Văn Châu; Quyết định số 10/HĐQT ngày 01/8/2011 của Hội đồng quản trị thay đổi ông BĐ_Trần Văn Phương bằng ông LQ_Trần Văn Châu; Quyết định số 10/HĐQT ngày 01/8/2011 về việc miễn nhiệm chức danh Tổng Giám đốc - người đại diện theo pháp luật của ông BĐ_Trần Văn Phương; Quyết định số 09/HĐQT ngày 01/8/2011 về việc bổ nhiệm ông LQ_Trần Văn Châu làm Tổng Giám đốc vì Biên bản họp ngày 28/7/2011 của Hội đồng quản trị và Đại hội đồng cổ đông về việc miễn nhiệm và bổ nhiệm Tổng Giám đốc chưa đúng quy định tại Điều 104 của Luật Doanh nghiệp do tỷ lệ phiếu thông qua chưa đủ nên không có hiệu lực pháp luật. Do đó, các Quyết định miễn nhiệm, bổ nhiệm trên không có giá trị pháp lý vì nội dung hai Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông ngày 13/11/2010 (do bên nguyên đơn cung cấp, được Tòa án đã đánh dấu bút lục) không đúng nên không có hiệu lực pháp luật với lý do sau: Biên bản thứ nhất có 03 trang, đánh số bút lục từ 239 đến 241 nhưng trang 1 không có chữ ký của các thành viên tại trang 1, trang 2 và không có đóng dấu giáp lai; trang 3 chỉ có chữ ký của các thành viên, Biên bản thứ 2 có 3 trang, (BL 242 đến 244) nhưng không có đánh số trang, trang 1 và 2 không có các chữ ký của các thành viên dự họp, trang nhất và trang cuối có đóng dấu giáp lai nhưng trang thứ 2 không có đóng dấu giáp lai. Hơn nữa các Quyết định, Biên bản họp này ông BĐ_Phương không nhận được nên không biết để khởi kiện và trước khi chuyển đổi thành Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ thì Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An Anlà chủ đầu tư của dự án 7Athuộc Khu đô thị mới ĐN và ngày 01/10/2008 Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An do ông BĐ_Trần Văn Phương làm đại diện có ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với các ông, bà LQ_Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đặng Vĩnh, LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Hải Đăng và Nguyễn Thu Thảo. Theo nội dung của bản hợp đồng này thì các bên có thống nhất phân chia tỷ lệ % trị giá phần vốn góp của mỗi cá nhân trên tổng giá trị đầu tư vào dự án 7A. Thực hiện sự hợp tác nêu trên, các ông bà nêu trên có góp một phần vốn vào Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An, cụ thể: ông Vĩnh góp 1,22 tỷ đồng, ông LQ_Hiếu góp 0,5 tỷ đồng, ông LQ_Đăng góp 0,7 tỷ đồng, bà Thảo góp 0,7 tỷ đồng, riêng ông LQ_Thành chỉ mang tính chất ghi danh vì thực tếông LQ_Thành hoàn toàn không có đóng góp tiền vào Công ty trong giai đoạn này. Sau đó, trước sức ép của các thành viên nên ông LQ_Thành có góp công ty số tiền 400 triệu đồng, ngoài ra các thành viên khác không đóng góp thêm khoản nào khác và Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An Ancó lập giấy xác nhận nhưng trên thực tế số tiền này họ góp vào thời điểm trước khi các bên ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh (góp trước ngày 01/10/2010) và thực tế số tiền góp này là tiền mà các ông, bà hùn vốn để cùng Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An Anthực hiện dự án 7A chứ không phải là số tiền mà các ông, bà góp theo tỷ lệ % trị giá cổ phần đã đăng ký mua với LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An. Việc họ căn cứ vào Biên bản họp ngày 13/11/2010 để cho rằng số tiền họ góp vào đến thời điểm hiện nay là hơn 10 tỷ là không đúng. Do đó, LQ_Công ty An Anbác bỏ toàn bộ nội dung 2 biên bản này.

Ngoài ra khi nghiên cứu, đối chiếu Biên bản họp ngày 13/11/2010, các bản tự khai của các ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, LQ_Nguyễn Văn Thành, LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Văn Châu và ông LQ_Trần Hải Đăng có trong hồ sơ vụ án với chữ ký của họ và với Điều lệ của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ thì có nhiều điểm nghi vấn, do vậy LQ_Công ty An An yêu cầu Tòa án hoãn phiên tòa ra quyết định trưng cầu giám định đốivới chữ ký của ông LQ_Lê Văn Hiếu, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Trần Văn Châu trong 2 Biên bản họp ghi cùng ngày 13/11/2010, trong Điều lệ Công ty và trong 3 bản tự khai của 3 ông, có phải do cùng 1 người ký hay không. Tại các văn bản có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan LQ_Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN đại diện: Bà Nguyễn Kim Ngân- Trưởng Phòng Đăng ký kinh doanh. Bà Ngân ủy quyền cho bà Vũ Mộng Huyền, sinh năm 1977 tham gia tố tụng (theo Giấy ủyquyền ngày 14/4/2014). Bà Ngân và đại diện theo ủy quyền bà Huyền trình bày như sau:

Việc LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An cho rằng các hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có sự gian dối là không có cơ sở vì theo hồ sơ chuyển đổi từ Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An Ansang Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ có tại LQ_Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN thì đã đầy đủ, đúng theo quy định tại Điều 23 Nghị định 43/NĐ-CP của Chính phủ và quy định tại Điều 23, 24 Luật Doanh nghiệp, hồ sơ bao gồm: 01 giấy đề nghị chuyển đổi doanh nghiệp, Điều lệ của Công ty cổ phần, danh sách cổ đông sáng lập, 5 hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An với các ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, LQ_Nguyễn Văn Thành,LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Hải Đăng, LQ_Trần Văn Châu; Biên bản họp Hội đồng quản trịcủa LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An và Quyết định của Hội đồng quản trị LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An về việc chuyển đổi Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An sang Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ và việc nộp không đủ vốn điều lệ đã đăng ký không liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4000501099 ngày 27/10/2010.

Tại các văn bản có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông LQ_Nguyễn Văn Thành, ông LQ_Lê Văn Hiếu, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Trần Văn Châu trình bàynhư sau:

Trong quá trình giải quyết vụ án các ông LQ_Thành, LQ_Hiếu, LQ_Đăng, LQ_Châu đều thống nhất với việc khởi kiện của nguyên đơn, đối với yêu cầu độc lập của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An thì các ông cũng thống nhất với trình bày của nguyên đơn và cho rằng yêu cầu độc lập của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An là không có cơ sở và yêu cầu Tòa án bác đơn yêu cầu độc lập của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh QN cho rằng: Việc chấp hànhpháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Sau khi nghiên cứu tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, kết quả

tranh luận, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát.

1. Về thẩm quyền:

XÉT THẤY:

Trong vụ án này, nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc ông BĐ_Trần Văn Phương trả lại con dấu cho Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ. Mặc dù, tại Khoản 2 Điều 36 của Luật Doanh nghiệpquy định: Con dấu là tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, con dấu liên quan mật thiết đến hoạt động quản lý Công ty, là biểu hiện của Công ty trong các giao dịch và người bị kiện BĐ_Trần Văn Phương là thành viên Công ty đang nắm giữ con dấu. Hơn nữa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có các yêu cầu độc lập như: Hủy bỏ Biên bản cuộc họp Đại hội đồng cổ đông và Biên bản họp Hội đồng quản trị; hủy bỏ quyết định, tuyên vô hiệu đối với các văn bản họp; hủy các “Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần”, hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Các yêu cầu độc lập này có liên quan đến thành lập và hoạt động của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ. Do đó, theo quy định tại Khoản 3 Điều 29; Điểm a Khoản 1 Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp giữa các thành viên trong Công ty, thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh QN và theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 25 của Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ thì ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt có quyền khởi kiện ông BĐ_Nguyễn Đông Phương trả lại con dấu cho Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ.

2. Về Sổ đăng ký cổ đông:

Theo quy định tại Điều 86 Luật Doanh nghiệp thì “Sổ đăng ký cổ đông có thể là văn bản, tập dữ liệu điện tử...” “Cổ đông sở hữu từ 5% tổng sốcổ phần trở lên phải được đăng ký với cơ quan kinh doanh trong thời hạn”. Trong vụ án này, các cổ đông gồm: LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An, LQ_Nguyễn Văn Thành, NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Hải Đăng và LQ_Trần Văn Châu có tên trong văn bản danh sách cổ đông do LQ_Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cung cấp (BL 440, 44) có tên trong Điều lệ Công ty (BL 447) và đã được các biên bản họp Đại hội đồng cổ đông, họp Hội đồng quản trị của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ xác định. Do đó, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An do ông BĐ_Trần Văn Phương đại diện, ông LQ_Nguyễn Văn Thành, ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, ông LQ_Lê Văn Hiếu, ông LQ_Trần Hải Đăng và ông LQ_Trần Văn Châu là các cổ đông Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ trong vụ án.

3. Về Hội đồng quản trị của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ:

Mặc dù Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp vào ngày 27/10/2010 (hồ sơ chuyển đổi từ Công ty TNHHMột thành viên sang Công ty cổ phần được lập ngày 30/9/2010) nhưng trước đó, vào ngày 30/9/2010 các ông BĐ_Trần Văn Phương, LQ_Nguyễn Văn Thành, NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, LQ_Trần Hải Đăng, LQ_Lê Văn Hiếu và LQ_Trần Văn Châu tổ chức cuộc họp để đề cử và bổ nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần được chuyển đổi để quản lý Công ty và sau khi được Cơ quan đăng ký kinh doanh cho phép chuyển đổi ngày 27/10/2010 Công ty không tổ chức bầu Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị... nhưng cho đến nay, các cổ đông góp vốn không có ai phản đối cuộc họp ngày 30/9/2010. Đồng thời, trong quá trình hoạt động của Công ty cũng như trong các cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông, cuộc họpHội đồng quản trị sau ngày 27/10/2010 các cổ đông vẫn thực hiện theo sự lãnh đạo của những người quản lý Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ đã được thống nhất ngày 30/9/2010. Hơn nữa, trước đó các cổ đông góp vốn, đã có cam kết: “Đến thời điểm thích hợp 06 cổ đông trên sẽ thành lập Công ty cổ phần” và tất cả 6/6 cổ đông của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ đều tham gia cuộc họp với tỉ lệ biểu quyết nhất trí 100% các nội dung cuộc họp ngày 30/9/2010. Cho nên, các ông BĐ_Trần Văn Phương, LQ_Nguyễn Văn Thành, NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, LQ_Trần Hải Đăng, LQ_Lê Văn Hiếu và LQ_Trần Văn Châu là các thành viên Hội đồng quản trị; ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt là Chủ tịch Hội đồng quản trị và ông BĐ_Trần Văn PhươnglàTổng Giám đốc - người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ.

4. Về yêu cầu giám định của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An:

Sau khi LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An có yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký của các ông LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Hải Đăng và LQ_Trần Văn Châu trong 02 Biên bản họp Hội đồng quản trị cùng ngày 13/11/2010; bản tự khai và Điều lệ Công ty năm 2010, Tòa án nhân dân tỉnh QN yêu cầu LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An cung cấp bản gốc của 02 Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 13/11/2010 (Thông báo số 56/TD-TA ngày 24/4/2014) nhưng LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An không cung cấp theo yêu cầu nên Tòa án nhân dân tỉnh QN không thể trưng cầu giám định theo nội dung đề nghị của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An. Hơn nữa, các lý do để LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An có yêu cầu trưng cầu giám định mang tính chất suy đoán, không có căn cứ. Cụ thể:

-   Về các biên bản họp không đánh số trang, không đóng dấu giáp lai, các trang đầu không có chữ ký của các thành viên dự họp: Đây là các sai sót thông thường hay xảy ra nhưng các trang của biên bản đều thể hiện nội dung phù hợp nhau và gắn kết nhau. Khôngcó văn bảnnào khácđể chứng minhcó sự giả tạo hoặc gian dối.

-   Bản gốc của Biên bản họp Hội đồng cổ đông số 01/NQ/ĐHĐCĐ/2010 ngày

13/11/2010 do nguyên đơn đem xuất trình tại phiên tòa có đóng dấu giáp lai cả 03 trang chứ không phải chỉ có đóng dấu giáp lai trang 01 và trang 03 như khiếu nại của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An.

-   Các Biên bản họp Hội đồng cổ đông số 01/NQ/ĐHĐCĐ/2010 ngày 13/11/2010 và Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông cùng ngày 13/11/2010 đều có sự tham gia của ông BĐ_Trần Văn Phương, đương nhiệm Tổng Giám đốc Công ty ký vào các biên bản và không có ý kiến nào về thành viên dự họp thể hiện sự thừa nhận cuộc họp gồm có 06 người như biên bản đã ghi nhận.

-   Tại phiên tòa hôm nay, các ông LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Hải Đăng và LQ_Trần Văn Châu đều khai chữ ký trong 02 Biên bản họp Hội đồng quản trị cùng ngày 13/11/2010; bản tự khai và Điều lệ Công ty năm 2010 và Biên bản Đại hội đồng cổ đông ngày 10/12/2010 là chữ ký của mình ký.

Mặt khác, theo quy định tại Khoản 4 Điều 22 Luật Giám định tư pháp quy định: “Người yêu cầu giám định chỉ được thực hiện quyền tự yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”.Vì vậy, tại thời điểm LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An có đơn yêu cầu trưng cầu giám định thì Tòa án nhân dân tỉnh QN đã có Quyết định đưa vụ án ra xét xử nên LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An không có quyền tự mình yêu cầu cơ quan giám định (sau khi có yêu cầu nhưng không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận) để giám định chữ ký của các ông LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Hải Đăng và LQ_Trần Văn Châu. Cho nên, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký của các ông LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Hải Đăng và LQ_Trần Văn Châu trong 02 Biên bản họp Hội đồng quản trị cùng ngày 13/11/2010; bản tự khai và Điều lệ Công ty năm 2010 của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An. Đến ngày 16/5/2014 LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An tiếp tục có đơn yêu cầu giám định về chữ ký của ông LQ_Lê Văn Hiếu, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Trần Văn Châu trong Biên bản họp ngày 27/12/2012, trong Điều lệCông ty và trong bản tự khai có phải do cùng một người ký không và tại phiên tòa hôm nay, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An tiếp tục yêu cầu giám định những nội dung trên. Tuy nhiên, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An không cung cấp các văn bản theo yêu cầu của Tòa án nhân dân tỉnh QN để giám định. Mặt khác, tại phiên tòa ông LQ_Hiếu, ông LQ_Đăng, ông LQ_Châu đều thừa nhận chữ ký trong các văn bản trên là chữ ký của các ông. Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu đề nghị giám định của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An.

5. Về nội dung vụ án:

Sau khi dự án 16,5 ha Khu đô thị số 7A - Khu đô thị mới ĐN được Ủy ban nhân dân tỉnh QN phê duyệt bằng Quyết định số 359/QĐ-UBND ngày 24/01/2008 thì đến ngày 21/02/2008 các bên gồm: ông BĐ_Trần Văn Phương - Giám đốc Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư Địa ốc An An(nay là LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An) và 05 người khác là các ông LQ_Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đặng Vĩnh(ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt thay thế), ông LQ_Trần Hải Đăng, ông Phan Hoàng Phú Lâm (ông LQ_Lê Văn Hiếu thay thế), bà Nguyễn Hà Hải Băng(ông LQ_Trần Văn Châu thay thế) tổ chức cuộc họp thỏa thuận việc góp vốn, tỉ lệ góp vốn của từng người và thành lập ban quảnlý dự án, với mục đích cùng nhau đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trêntoàn bộ diện tích dự án được giao. Biên bản này cũng đã thống nhất: “Đến thời điểm thích hợp 06 cổ đông trên sẽ thành lập Công ty cổphần...để thực hiện dự án và cổ phần của ông BĐ_Trần Văn Phương sẽ trở thành cổ phần của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tưĐịa ốc An An (nay là LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An) trong công ty mới thành lập” (BL 232) (Điều 14 Luật Doanh nghiệp).

Trên cơ sở thống nhất tại Biên bản ngày 21/02/2008, Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư Địa ốc An An tiến hành thành lập Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An, đặt trụ sở tại thôn VĐ, xã ĐN, huyện ĐB, tỉnh QN(nơi có dự án) để đại diện cho 06 người nêu trên trước Ủy ban nhân dân tỉnh QN và tiếp nhận số tiền đóng góp đầu tư vào dự án như thỏa thuận của các bên ngày 21/02/2008 và được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 3304000315 ngày 28/7/2008, do ông BĐ_Trần Văn Phương làm người đại diện theo pháp luật (BL 132).

Thực hiện theo thỏa thuận ngày 21/02/2008 các ông Nguyễn Đặng Vĩnh, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông Phan Hoàng Phú Lâm, ông LQ_Lê Văn Hiếu, bà Nguyễn Thu Thảo tiến hành chuyển tiền cho ông BĐ_Trần Văn Phương vào các ngày 25/3/2008; 17/9/2008 và

11/12/2008 (BL 269, 270, 272, 273, 279.3) và ngày 01/10/2008 “tiếp nối với sự hợp tác trước đây(ngày 21/02/2008 - BL 194) hai bên tiến hành ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, với các thành phần gồm:

-   Bên A là ông BĐ_Trần Văn Phương- Đại diện Công ty TNHH Một thành viên

Địa ốc An An.

-   Bên B là các ông LQ_Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đặng Vĩnh(ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt thay thế), ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Lê Văn Hiếu và bà Nguyễn Thu Thảo(ông LQ_Trần Văn Châu thay thế).

Nội dung hợp đồng là phân định lại tỉ lệ góp vốn của bên A- LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An và bên B- 05 người còn lại; xác định tiến độ góp vốn, người quản lý sử dụng vốn, thành lập ban điều hành dự án cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia (BL 194). Tại Điều 3 của Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 01/10/2008 hai bên cũng đã thống nhất để Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An dùng pháp nhân của mình để đại diện cho hai bên thực hiện dự án.

Việc thỏa thuận của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư Địa ốc An An(nay là LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An) vào ngày 21/02/2008 ngay sau khi nhận được dự án và việc ký kết Hợp đồng hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 01/10/2008 ngay sau khi Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư Địa ốc An Anthành lập Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An(28/7/2008), cùng với việc xác định tỉ lệ góp vốn và số tiền các thành viên đã đầu tư vào dự án tại cuộc họp “cổ đông” do Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An Antổ chức ngày 10/8/2010 cũng như việc các ông Nguyễn Đặng Vĩnh, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông Phan Hoàng Phú Lâm, ông LQ_Lê Văn Hiếu, bà Nguyễn Thu Thảo chuyển tiền cho ông BĐ_Trần Văn Phương và lời khai của các đương sự về việc Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An sau khi thành lập chỉ để thực hiện dự án, không có hoạt động kinh doanh khác đã cho thấy LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An thành lập Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An tại ĐB, QN là chỉ để thực hiện dự án 16,5 ha Khu đô thị số 7A - Khu đô thị mới ĐN. Toàn bộ chi phí đầu tư thực hiện dự án này không chỉ của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An, mà còn do đóng góp vốn của các cá nhân ông LQ_Nguyễn Văn Thành, ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt(thay thế ông Nguyễn Đặng Vĩnh), ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Lê Văn Hiếu(thay thế ông Phan Hoàng Phú Lâm), ông LQ_Trần Văn Châu(thay thế bà Nguyễn Hà Hải Băng).

Trong quá trình thực hiện đầu tư, để đáp ứng với yêu cầu hoạt động và bảo đảm quyền lợi của các thành viên, các bên tham gia góp vốn thực hiện dự án đã tổ chức cuộc họp vào ngày

30/9/2010 và ngày 01/10/2010 nhằm thống nhất chuyển đổi Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An thành Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ. Cuộc họp này có các thành phần: Ông BĐ_Trần Văn Phương - đại diện Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An An, ông LQ_Nguyễn Văn Thành, ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Lê Văn Hiếu và Ông LQ_Trần Văn Châu.

Nội dung các cuộc họp thể hiện như sau:

-   Xác định vốn điều lệ, số lượng cổ phần và mệnh giá mỗi cổ phần và số cổ phần của từng thành viên đăng ký mua.

-   Đề cử, bổ nhiệm nhân sự của Ban quản trị và người đại diện theo pháp luật của

Công ty cổ phần được chuyển đổi.

-   Xác định số tiền do các thành viên đã đóng góp vào dự án.

Tại biên bản cuộc họp này có ghi nhận số tiền mà các thành viên LQ_Nguyễn Văn Thành, NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, LQ_Trần Hải Đăng, LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Văn Châu còn nợ LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An so với giá trị cổ phần đăng ký mua là 7.026.462.574 đồng. Tuy nhiên, sau khi được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cho phép chuyển đổi loại hình từ Công ty TNHH sang Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ vào ngày 27/10/2010 (Giấy chứng  nhận đăng  ký  doanh  nghiệp Công  ty  cổ  phần  số  4000501099- BL  11) thì  ngày 13/11/2010 Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ tiến hành họp Hội đồng cổ đông. Cuộc họp Hội đồng cổ đông này có sự tham gia của ông BĐ_Trần Văn Phương - đại diện cho LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An đã thỏa thuận: “số vốn ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 4000501099 ngày 27/10/2010 của Công ty cổ phầnAn An Nam Kỳ cũng không phải là số thực góp. Số thực góp tính theo nội dung số 2 của biên bản này(nội dung số 2 thỏa thuận mức vốn đóng góp là 14.533.333.333 đồng) (BL 206, 207, 239, 240, 241) và cũng đã thống nhất các thành viên LQ_Thành, NĐ_Kim, LQ_Đăng, LQ_Hiếu, LQ_Châu không có nhận chuyển nhượng cổ phần của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An: “Việc xác nhận nợ LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An  của  5 cổ đông ông LQ_Nguyễn Văn Thành, ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Lê Văn Hiếu và ông LQ_Trần Văn Châu với số tiền 7.026.462.574 đồng là không có thực”. Mặt khác, ông BĐ_Trần Văn Phương là đại diện theo pháp luật của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An và phần lớn số cổ phần của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An đều thuộc quyền sở hữu của gia đình ông BĐ_Trần Văn Phương(bà Huỳnh Phương Thúy là vợ ông BĐ_Phương, ông Nguyễn Ngọc Quang là cha ông BĐ_Phương) (BL 131) nhưng tại cuộc họp Hội đồng cổ đông ngày 13/11/2010 nêu trên, ông BĐ_Phương đã nhất trí các nội dung cuộc họp và không có ý kiến gì về thanh toán số tiền chuyển nhượng cổ phần của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An với các ông LQ_Nguyễn Văn Thành, ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Lê Văn Hiếu và ông LQ_Trần Văn Châu. Đồng thời, tại Công văn số 42/2011/TĐV ngày 23/8/2011 của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An cũng đã xác định các cổ đông LQ_Thành, NĐ_Kim, LQ_Đăng, LQ_Hiếu, LQ_Châu đã đóng góp cổ phần vào Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳvà yêu cầu góp thêm cho đủ vốn theo cam kết vào Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ, chứ khôngphải trả nợ “Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần” cho LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An là người thụ hưởng. Do đó, có căn cứ xác định: Các “Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần” ngày 30/9/2010 giữa LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An với ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, ông LQ_Nguyễn Văn Thành, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Lê Văn Hiếu, ông LQ_Trần Văn Châu mỗi người 375.000 cổ phần với trị giá 03 tỷ 750 triệu đồng hoàn toàn không có thực. Thực tế, việc đóng góp tiền cổ phần vào Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ đã được các cổ đông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, LQ_Nguyễn Văn Thành, LQ_Trần Hải Đăng, LQ_Lê Văn Hiếu và LQ_Trần Văn Châu thực hiện khi dự án Khu đô thị số 7A - Khu đô thị mới ĐN được triển khai năm 2008 và trước khi Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ thành lập. Vì vậy, các “Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần” được thiết lập ngày 30/9/2010 giữa LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An với ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, ông LQ_Nguyễn Văn Thành, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Lê Văn Hiếu, ông LQ_Trần Văn Châu là nhằm để lập hồ sơ chuyển đổi Công ty TNHH Một thành viên Địa ốc An Anthành Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ theo quy định của pháp Luật Doanh nghiệp như lời khai của nguyên đơn và lời khai của các ông ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, ông LQ_Nguyễn Văn Thành, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_Lê Văn Hiếu, ông LQ_Trần Văn Châu là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Khoản 4 Điều 23 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính Phủ. Cho nên, yêu cầu hủy các “Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần” ngày 30/9/2010 của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An không có căn cứ chấp nhận.

Việc các cổ đông không đóng góp đủ vốn theo cam kết đã được Hội đồng cổ đông đã thống nhất thông qua “số thực góp” ngày 13/11/2010. Với số cổ phần đăng ký “số thực góp” của Quyết định của Đại hội đồng cổ đông ngày 13/11/2010 và quy định tại Điều 7 Điều lệ Công ty cổ phần An An Nam Kỳ“Vốn điều lệ có thể tăng hoặc giảm do yêu cầu tình hình hoạt động của Công ty và do quyết định của Đại hội đồng cổ đông(tính đến nay đã hơn 03 năm) thì Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳcó nghĩa vụ phải đăng ký thay đổi lại “cổ đông sáng lập”,  "vốn  điều  lệ,  tỷ  lệ  góp  vốn”theo  quy  định  tại  Điều  40,  Điều  41  Nghị  định  số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010; Điều 6 và Điểm b, c Khoản 5, 6 và Khoản 9 Điều 23 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ. Như vậy, không thể hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 4000501099 ngày 27/10/2010 như yêu cầu của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An. Đối với yêu cầu hủy bỏ Biên bản cuộc họp Đại hội đồng cổ đông và Biên bản họp Hội đồng quản trị cùng ngày 28/7/2011; Quyết định số 08 ngày 01/8/2011; Quyết định số 10/HĐQT ngày 01/8/2011; Quyết định số 10/HĐQT ngày 01/8/2011 và Quyết định số 09/HĐQT ngày 01/8/2011 của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An:

Ngày 28/7/2011, Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ tổ chức họp, với thành phần tham dự gồm ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt- Chủ tịch Hội đồng quản trị, ông LQ_Lê Văn Hiếu, ông LQ_Trần Văn Châu, ông LQ_Trần Hải Đăng, ông LQ_LêXuân Thành - ủy quyền cho ông LQ_Lê Văn Hiếu(Giấy ủy quyền ngày 26/7/2011) và ông BĐ_Trần Văn Phương- ủy quyền cho ông Trần Tuấn Kiệt(Giấy ủy quyền ngày 27/7/2011và việc ủy quyền cho ông Kiệt được ông BĐ_Trần Văn Phương thừa nhận tại đơn yêu cầu độc lập ngày

19/11/2013). Như vậy, cuộc họp Hội đồng quản trị ngày 28/7/2011 có mặt đầy đủ các thành viên Hội đồng quản trịcủa Công ty cổphần Địa ốc An An Nam Kỳ và cuộc họp của Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ này đã thông qua quyết định bãi nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc đối với ông BĐ_Trần Văn Phương; bổ nhiệm ông LQ_Trần Văn Châu giữ chức vụ Tổng Giám đốc của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ thay cho ông BĐ_Trần Văn Phương với số phiếu biểu quyết là 05/06 phiếu, là hoàn toàn đúng quyền hạn của Hội đồng quản trị được quy định tại Điều 27, 29 Điều lệ Công tycổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ và Điểm h Khoản 1,Khoản 3 Điều 108; Khoản 2, Khoản 8Điều 112 và Khoản 1 Điều 116 Luật Doanh nghiệp. Căn cứ kết quả của cuộc họp Hộiđồng quản trị ngày 28/7/2011, ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt- Chủ tịch Hội đồng quản trị ra quyết định số 09/HĐQT ngày 01/8/2011 bổ nhiệm ông LQ_Trần Văn Châu làm Tổng Giám đốc của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ; Quyết định số 10/HĐQT ngày 01/8/2011 miễn nhiệm chức danh Tổng Giám đốc

-người đại diện theo pháp luật của ông BĐ_Trần Văn Phương. Việc ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt ra quyết định miễn nhiệm chức danh Tổng Giám đốc của ông BĐ_Trần Văn Phương và quyết định bổ nhiệm ông LQ_Trần Văn Châu làm Tổng Giám đốc của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ phù hợp với quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 28 Điều lệ Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ và Điểm c Khoản 1 Điều 111 Luật Doanh nghiệp. Do đó, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An cho rằng Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳtổ chức cuộc họp Hội đồng quản trị thông qua các quyết định bãi nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc đối với ông BĐ_Trần Văn Phương; bổ nhiệm ông LQ_Trần Văn Châu giữ chức vụ Tổng Giám đốc của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ và Chủ tịch Hội đồng quản trị ra các Quyết định số 09 và 10 ngày 01/8/2011 trái pháp luật là không có cơ sở chấp nhận.

Ngoài ra, trong cùng ngày 28/7/2011 Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ tổ chức Đại hội đồng cổ đông để thay đổi người đại diện theo pháp luật và sửa đổi Điều 6 Điều lệ Công tycổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ. Theo ghi nhận tại biên bản họp Đại hội đồng cổ đông thể hiện kết quả biểu quyết nhất trí của Đại hội đông cổ đông về thay đổi người đại diện theo pháp luật và sửa đổi Điều 6 Điều lệ Công ty là 5/6 phiếu, đạt tỉ lệ 83% trên tổng số phiếu biểu quyết. Nhưng theo quy định tại Điểm b Khoản 5 Điều 23 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ thì “cổđông chỉ thanh toán 1 phần số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết tương ứng với với số cổ phần đã thanh toán”. LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An cho rằng LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An đã thanh toán vào Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ là 9.772.070.228 và cho rằng ông Vĩnh chỉ góp 1,22 tỷ đồng, ông LQ_Hiếu chỉ góp 0,5 tỷ đồng, ông LQ_Đăng chỉ góp 0,7 tỷ đồng, bà Thảo chỉ góp 0,7 tỷ đồng, riêng ông LQ_Thành chỉ mang tính chất ghi danh, sau đó mới góp 400 triệu đồng nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh cho việc đã thanh toán số tiền này (BL 382). Hơn nữa, số tiền mà LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An cho rằng đã thanh toán này cũng không được các cổ đông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt, LQ_Lê Văn Hiếu, LQ_Trần Văn Châu, LQ_Trần Hải Đăng, LQ_Nguyễn Văn Thành chấp nhận, nên việc LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An khai đã thanh toán 9.772.070.228 đồng không có cơ sở để tin cậy. Các cổ đông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt khai đã thanh toán 2 tỷ 320 triệu đồng, LQ_Nguyễn Văn Thành khai đã thanh toán 3 tỷ đồng, LQ_Lê Văn Hiếu khai đã thanh toán 1,6 tỷ đồng, LQ_Trần Hải Đăng khai đã thanh toán 1,8 tỷ đồng, LQ_Trần Văn Châu đã thanh toán 1,8 tỷ đồng nhưng cũng không đưa ra được đầy đủ chứng cứ để chứng minh (cho rằng có một số giấy thanh toán tiền bị thất lạc).Hội đồng xét xử xét thấy các lời khai về số tiền đã thanh toán của 06 cổ đông Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ không có căn cứ để chấp nhận. Vì vậy, để xác định tỷ lệ giá trị cổ phần đã thanh toán của mỗi cổ đông với giá trị cổ phần phải thanh toán thì phải căn cứ vào các biên bản họp Đại hội đồng cổ đông ngày 13/11/2010 (BL 206, 207, 239, 241) bởi lẽ:

-   Tại đơn khởi kiện vụ án hành chính ngày 30/9/2013 và văn bản trình bày ngày 10/10/2013 của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An - do ông BĐ_Trần Văn Phương ký tên đại diện đã xác định đầu tư tại dự án 7A: “số tiền gần15 tỷ đồng”. Tuy nhiên, theo báo cáo tổng hợp chi phí của Ban quản lý phát triển Khu đô thị mới ĐN thì chi phí đầu tư của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ tại dự án là 13.004.009.000 đồng. Báo cáo này phù hợp với việc xác định tổng mức chi phí tại Biên bản ngày 13/11/2010: 11.892.070.228 đồng + ông LQ_Thành góp thêm 400 triệu đồng (như nguyên đơn và bị đơn trình bày) + LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An góp thêm570.000 đồng (như nguyên đơn và những người liên quan trình bày).

-   Các biên bản này là các biên bản cuối cùng được Đại hội đồng cổ đông (cómặt 100% cổ đông) thông qua xác định số cổ phần mà các cổ đông phải đóng góp (đăng ký mua) và xác định số tiền mà các cổ đông đã đóng góp (đã thanh toán) vào Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ. Đồng thời, theo như lời khai của các đương sự thì các đương sự không góp thêm và dự án đã dừng đầu tư.

-   Quy định tại Điều 7 Điều lệ Công ty cổ phần An An Nam Kỳ:“vốnđiều lệ có thể tăng hoặc giảm do yêu cầu tình hình hoạt động của Công ty và do quyết định của Đạihội đồng cổ đông”.

-   Tính từ ngày Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đến nay đã hơn 03 năm. Theo quy định tại Điều 6 và Điểm a, b Khoản 5, Khoản 6, Khoản 9 Điều 23 của Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ thì Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ phải đăng ký lại vốn điều lệ và vốn điều lệ của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ là tổng số cổ phần được quyền phát hành (vốn phải đóng góp) được ghi nhận tại Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông ngày 13/11/2010.

Do đó, Hội đồng xét xử xác định cụ thể như sau:

Phần vốn phải đóng góp (Tống giá trị cổ phần được quyền phát hành) 14.533.333.333 đồng.

Các cổ đông đã đóng góp (thanh toán) được tính theo tỉ lệ sau:

-   LQ_Công      ty      cổ      phần      Tập      đoàn      An      Nam:      2.342.070.028 đồng/14.503.333.333đồng,chiếm tỷ lệ 16,15%;

-   Ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt: 2.320.000.000 đồng/14.503.333.333 đồng, chiếm tỷ lệ16%;

-   Ông  LQ_Lê  Xuân  Thành:  3.000.000.000  đồng/14.503.333.333  đồng  chiếm  tỷ lệ20,68%;

-   Ông  LQ_Lê  Phi  Hiếu:  1.600.000.000  đồng/14.503.333.333  đồng,  chiếm  tỷ lệ11,03%;

-   Ông LQ_Trần Hải Đăng: 1.800.000.000 đồng/14.503.333.333 đồng, chiếm tỷ lệ

12,41%;

-   Ông  LQ_Ngô  Bảo  Châu:  1.800.000.000  đồng/14.503.333.333  đồng,  chiếm  tỷ lệ12,41%;

Số tiền chưa góp theo thống nhất tại Biên bản ngày 13/11/2010: 1.641.263.305 đồng, tỷ lệ 11,32%.

Như vậy, theo thống nhất của Đại hội đồng cổ đông ngày 13/11/2010 về giá trị số cổ phần mà các cổ đông phải đóng góp (đăng ký mua) và giá trị số cổ phần đã thanh toán của từng cổ đông theo quy định tại Điểm b Khoản 5 Điều 23 Nghị định 102/NĐ-CP nêu trên thì cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 28/7/2011có nội dung thông qua việc thay đổi người đại diện theo pháp luật và sửa đổi Điều lệ của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ với kết quả biểu quyết nhất trí của 5/6 cổ đông (NĐ_Kim, LQ_Thành, LQ_Hiếu, LQ_Đăng, LQ_Châu) chỉ chiếm tỷ lệ biểu quyết 69,63%. 01 cổ đông ông Trần Tuấn Kiệt - đại diện cho LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An không nhất trí, chiếm tỉ lệ 30,37%. Căn cứ theo Điểm b Khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệp: “Phải được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp thuận” thì việc thay đổi người đại diện theo pháp luật và sửa đổi Điều 6 Điều lệ Công ty của Đại hội đồng cổ đông của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ không được thông qua. Cho nên, việc ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt - Chủ tịch Hội đồng quản trị căn cứ vào kết quả không được thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 28/7/2011 để ra Quyết định số 08 ngày 01/8/2011 thay đổi ông BĐ_Trần Văn Phương bằng ông LQ_Trần Văn Châu làm người đại diện theo pháp luật; sửa đổi Điều 6 Điều lệ Công ty và ra Quyết định số 10/HĐQT ngày 01/8/2011 của Hội đồng quản trị thay đổi người đại diện theo pháp luật từ ông BĐ_Trần Văn Phương sang ông LQ_Trần Văn Châu là không đúng quy định.

Tuy nhiên, sau khi ra các quyết định trên, vào ngày 03/4/2012 Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông (lần 1) để tiến hành thay đổi người đại diện theo pháp luật và thay đổi Điều lệ Công ty. Cuộc họp này ông BĐ_Trần Văn Phương không tham dự và theo quy định tại Khoản 1 Điều 33 Điều lệ Công ty“phải do số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng sốcổ phần có quyền biểu quyết” theo quy định của Điều lệ này thì cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 03/4/2012 không đủ điều kiện tiến hành họp nên Đại hội đồng cổ đông đã thống nhất hoãn phiên họp này và quyết định tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông vào ngày 20/4/2012. Ngày 20/4/2012 Đại hội đồng cổ đông tiếp tục tiến hành họp để xem xét các nội dung trên. Tại cuộc họp này, ông BĐ_Phương vẫn vắng mặt và có mặt 5/6 cổ đông,với tỉ lệ 69,63% cổ phần có quyền biểu quyết. Như vậy, theo quy định tại Khoản 2 Điều 33 Điều lệ Công ty và Khoản 2 Điều 102 Luật Doanh nghiệpcuộc họp Đại hội đồng cổ đông triệu tập lần thứ 2 được tiến hành khi có số cổ đông đại diện ít nhất 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết” cuộc họp Đại hội đồng cổ đông lần hai ngày 20/4/2012 đủ điều kiện đế tiến hành. Tại cuộc họp lần hai, Đại hội đồng cổ đông đã nhất trí thay đổi Điều lệ Công ty liên quan đến người đại diện theo pháp luật và ông LQ_Trần Văn Châu - Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của Công ty với số phiếu biểu quyết nhất trí 5/5 cổ đông, đạt 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết của các cổ đông dự họp. Vì vậy, theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệpPhải được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp thuận” thì quyết định về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật; sửa đổi Điều 6 Điều lệ Công ty của Đại hội đồng cổ đông của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ được thông qua và theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ thì quyết địnhcủa Đại hội đồng cổ đông có hiệu lực kể từ ngày thông qua, tức kể từ ngày 20/4/2012 ông LQ_Trần Văn Châu là người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ. Cho nên, căn cứ vào Khoản 2 Điều 36 Luật Doanh nghiệp: “Con dấu là tài sản của doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm quản lý sử dụng con dấu theo quy định của pháp luật...” và căn cứ vào Khoản 4 Điều 6 Nghị định số 58/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 của Chính phủ về quản lý, sử dụng con dấu: Người đóng dấu các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm quản lý, sử dụng con dấu của cơ quan tổ chức mình ” thì ông LQ_Trần Văn Châu- người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ là người có trách nhiệm quản lý, sử dụng con dấu và ông BĐ_Trần Văn Phương đang giữ con dấu của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ(BL 61, 137) phải có trách nhiệm bàn giao con dấu của Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ cho ông LQ_Trần Văn Châu như yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt là có căn cứ pháp luật.

Đối với yêu cầu tuyên vô hiệu đối với các văn bản họp, quyết định được lập từ thời điểm ngày 30/9/2010 (ngày thiết lập hợp đồng chuyển nhượng cổ phần): Tòa án nhân dân tỉnh QN đã nhiều lần yêu cầu LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An nêu cụ thể tuyên vô hiệu đối với các văn bản họp, quyết định nào nhưng LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An không nêu cụ thể. Hơn nữa, như đã nhận định trên, các cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, các quyết định của Hội đồng quản trị là hợp pháp nên không chấp nhận yêu cầu này của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An.

Ngoài ra, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu độc lập LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An còn cho rằng: Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 28/7/2011 không có chữ ký của ông Kiệt tại các trang. Tuy nhiên, qua xem xét bản gốc của biên bản này các trang đều có chữ ký của ông Kiệt.

Bên cạnh đó, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An cho rằng không nhận được các văn bản triệu tập Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị cũng như các biên bản họp Đại hội đồng cổ đông, họp Hội đồng quản trị và quyết định miễn nhiệm bãi nhiệm của Công ty đối với ông BĐ_Phương. Tuy nhiên, lời trình bày trên không đúng với thực tế bởi lẽ như sau:

-   Ông Kiệt có tham dự cuộc họp ngày 28/7/2011 theo ủy quyền của ông BĐ_Phương.

-   LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An có giấy chuyển phát nhanh các văn bản trên có tại hồ sơ vụ án thế hiện có gởi nên mới có giấy hoàn lại.

-   Ông BĐ_Phương có nhận được các văn bản nên mới có phản đối tại Công văn số 42/2011/TĐV ngày 23/8/2011.

-   Tại đơn yêu cầu giám định ngày 16/5/2011 (BL 562) có kèm theo văn bản gốc Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 10/12/2012.

Như vậy, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An cho rằng không nhận được các văn bản nào là không đúng sự thật.Về số tiền 3.000.000 đồng mà LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An nộp cho Tòa án nhân dân tỉnh QN tạm ứng để chi phí cho việc giám định, tại biên bản giao nhận của Tòa án nhân dân tỉnh QN vào ngày 18/4/2014 nhưng việc giám định không thực hiện. Do đó, số tiền này được hoàn trả lại cho LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An. Tuy nhiên, LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An không nhận lại số tiền này. Hội đồng xét xửxét thấy số tiền này cần chuyển giao cho cơ quan Thi hành án tỉnh QN nhận để hoàn trả lại cho LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An là đúng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾTĐỊNH:

Áp dụng: Khoản 2 Điều 36; Khoản 2 Điều 102; Điểm b Khoản 3 Điều 104; Điểm h

Khoản 1 Khoản 3 Điều 108; Khoản 1 Điều 111; Khoản 2, Khoản 8 Điều 112 và Khoản 1 Điều

116 Luật Doanh nghiệp,

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt:

Buộc ông BĐ_Trần Văn Phương bàn giao con dấu Công ty cổ phần Địa ốc An

Nam Nam Kỳ cho người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần Địa ốc An An Trung

Kỳ là ông LQ_Trần Văn Châu quản lý, sử dụng theo quy định.

về:

2. Không chấp nhận các yêu cầu độc lập của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An

-   Yêu cầu hủy bỏ các văn bản liên quan đến việc thành lập Công ty cổ phần Địa ốc An Nam Nam Kỳ gồm: Các hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 30/9/2010; Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 4000501099 do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cấp ngày 27/10/2010.

-   Yêu cầu hủy bỏ Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 28/7/2011; Quyết định số 10/HĐQT ngày 01/8/20-11 và Quyết định số 09/HĐQT ngày

01/8/2011; Quyết định số 08 ngày 01/8/2011 và Quyết định số 10/HĐQT ngày 01/8/2011 của Hội đồng quản trị của LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An.

-   Yêu cầu tuyên vô hiệu đối với các văn bản họp, quyết định được lập từ thời điểm ngày 30/9/2010 (ngày thiết lập hợp đồng chuyển nhượng cổ phần).

3. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

-   Ông NĐ_Nguyễn Văn Kiệt không phải chịu. Công ty cổ phần Địa ốc An An Nam Kỳ được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) đã nộp tại biên lai thu số

179 ngày 04/10/2013 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh QN(ông LQ_Trần Hải Đăng nộp thay).

-   LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An phải chịu 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

Được trừ vào số tiền 2.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 189 ngày

21/11/2013 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh QN.

4. Về số tiền giám định:

Hoàn trả lại cho LQ_Công ty cổ phần Tập đoàn An An số tiền tạm ứng giám định 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

 

 

 

 

 

 

 

Tên bản án

Bản án số 16/2014/KDTM-ST Tranh chấp giữa các thành viên của công ty

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English