NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Ông Nguyễn Ngọc M  - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

2. Ông Nguyễn Ngọc T - Hội thẩm nhân dân

3. Bà Hoàng Thị H- Hội thẩm nhân dân

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Văn B, Thẩm tra viên chính Tòa án nhân dân tối cao.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Đoàn Ngọc L-Kiểm sát viên.

Ngày 04 tháng 4 năm 2006, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp thành viên công ty với công ty” giữa:

NGUYÊN ĐƠN:

Bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy

Trú tại 2A Cư Xá LTK, phường 9, quận X thành phố HCM;

Địa chỉ liên lạc: 27/8 ĐCT, phường 16, quận TP, thành phố HCM;

BỊ ĐƠN:

Ông BĐ_Lê Ngọc Tình

Trú tại 148/19 TTH, phường 13, quận Y, thành phố HCM;

NGỪỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN: 

1.      LQ_Công ty TNHH lâm sản Thành Đạt

Có trụ sở tại 269/3A Ấp 3 phường APĐ, quận Y, thành phố HCM;

Người đại diện của LQ_Công ty Thành Đạt: Bà Trịnh Thị Đào là Giám đốc công ty;

2.  LQ_Công ty TNHH TM-DV Thanh Long (sau  đây  viết  tắt  là LQ_Công ty Thanh Long )

Có trụ sở tại AB 41 BC, phường 14, quận TB, thành phố HCM;

Người đại diện hợp pháp của LQ_Công ty Thanh Long: Ông Nguyễn Trung Tín là Chủ tịch Hội đồng thành viên.

NHẬN THẤY:

LQ_Công ty Thành Đạt thành lập ngày 01/02/1992 theo  quyết định số 38/GP-UB của UBND thành phố HCM và theo Điều lệ công ty thì thời gian hoạt động là 30 năm, vốn điều lệ là 470.000.000 đồng chia ra làm 470 phần hùn, mỗi phần hùn trị giá 1.000.000 đồng, do 8 thành viên góp vốn.

Từ khi LQ_Công ty Thành Đạt thành lập ngày 01/02/1992 đến ngày 8/10/1997 đã 4 lần thay đổi các thành viên công ty ; nhưng Điều lệ, vốn điều lệ của Công ty vẫn không thay đổi và hiện nay chỉ còn hai thành viên tham gia, đó là bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy và ông BĐ_Lê Ngọc Tình; mỗi người góp 50% vốn, thành viên là 235.000.000 đồng; Chủ tịch Hội đồng thành viên công ty là ông BĐ_Lê Ngọc Tình; Công ty hợp đồng thuê bà Trịnh Thị Đào làm giám đốc. Trong quá trình hoạt động đến năm 2003, giữa thành viên với công ty có mâu thuẫn với nhau về việc phân chia quyền lợi, sau đó các bên đã khôngtự giải qquyết được và đã Thành sinh tranh chấp, nên tháng 10/2003 bà NĐ_Thị Thủy có đơn khởi kiện LQ_Công ty Thành Đạt đến Tòa án nhân dân thành phố HCM yêu cầu Công ty phải thanh toán lợi nhuận và cung cấp tài liệu, báo cáo thể hiện tình hình hoạt động của Công ty từ năm 1998 đến nay. Tại  Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 197/CNTT-KTST ngày 16/12/2003 của Tòa án nhân dân thành phố HCM đã qquyết định:

LQ_Công ty Thành Đạt phải cung cấp các tài liệu thể hiện tình hình hoạt động của công ty và chia lợi nhuận từ năm 1998 đến năm 2000 cho bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy tổng số tiền là 406.830.771đồng; còn tiền lãi của các năm 2001 và năm 2002 cũng sẽ được chia sau khi quyết toán xong với cơ quan thuế.

Sau một thời gian các bên mới chỉ thực hiện việc chia lợi nhuận đến năm 2000, còn từ năm 2001 - 2002 chưa giải qquyết được với nhau, nên ngày 21/5/2004 bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy lại có đơn khởi kiện LQ_Công ty Thành Đạt đến Tòa án nhân dân thành phố HCM với yêu cầu xin rút phần hùn 50% vốn điều lệ là 235.000.000 đồng; được sở hữu 50% giá trị toàn bộ tài sản của LQ_Công ty Thành Đạt và được chia lợi nhuận đến ngày bà được rút vốn.

Tại các Biên bản làm việc giữa Tòa án nhân dân thành phố HCM với bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy vào các ngày 29/6/2004, ngày 20/7/2004 bà NĐ_Thị Thủy đều yêu cầu được rút toàn bộ vốn, hoặc chuyển nhượng cho thành viên khác theo giá thoả thuận, nếu khôngchuyển nhượng được cho thành viên khác thì giải thể công ty . Tại cuộc họp các thành viên công ty ngày 16/8/2004 và Biên bản hoà giải kh ng thành ngày 13/9/2004, bà NĐ_Thị Thủy thông báo về việc có người đồng ý mua lại 50% phần hùn của bà với giá 25.000.000.000 đồng; nhưng Ông BĐ_Lê Ngọc Tình khôngđồng ý cho bà NĐ_Thị Thủy chuyển nhượng cho người ngoài Công ty,   ông không mua và cũng không giới thiệu ai mua vì giá bất hợp lý. Trong khi đó LQ_Công ty Thanh Long đồng ý mua lại phần vốn góp, quyền lợi của bà NĐ_Thị Thủy trong LQ_Công ty Thành Đạt với giá thoả thuận là 22.500.000.000 đồng và đồng ý thay bà NĐ_Thị Thủy làm thành viên của LQ_Công ty Thành Đạt và chịu toàn bộ trách nhiệm, nghĩa vụ của bà NĐ_Thị Thủytrong        Công ty Thành Đạt.

Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 243/XX-KTST ngày 28/9/2004, Tòa án nhân dân thành phố HCM đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn;

LQ_Công ty TNHH TM-DV Thanh Long thay thế bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy làm thành viên LQ_Công ty TNHH lâm sản Thành Đạt;

Danh sách thành viên góp vốn LQ_Công ty  TNHH lâm sản Thành Đạt được thay đổi như sau:

- BĐ_Lê Ngọc Tình vốn góp là: 235.000.000đ tương đương 50%;

-  LQ_Công ty  TNHH TM-DV Thành Long vốn góp là 235.000.000đ tương đương 50%; Sở kế hoạch và đầu tư thành phố HCM có trách nhiệm thực hiện việc thay đổi đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp theo nội dung nói trên;

Ghi nhận sự tự nguyện thoả thuận LQ_Công ty TNHH TM-DV Thành Long thanh toán cho bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy số tiền chuyển nhượng là 22.500.000.000 đồng; Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp lLuật. Ngày 5/10/2004, ông BĐ_Lê Ngọc Tình có đơn kháng cáo với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông BĐ_Lê Ngọc Tình với tư cách là bị đơn và LQ_Công ty Thành Đạt là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không hợp lý; bản Điều lệ của LQ_Công ty Thành Đạt khôngtrái với LLuật doanh nghiệp nên không bắt buộc phải sửa đổi bổ sung; Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ Điều 32 LLuật doanh nghiệp mà khôngcăn cứ thêm Điều 39 LLuật doanh nghiệp để giải quyết vụ án là thiếu sót nghiêm trọng.

Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 72/KTPT ngày 24/12/2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân

dân tối cao tại thành phố HCM đã quyết định:

Bác đơn yêu cầu của bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy yêu cầu rút toàn bộ vốn và được chuyển nhượng vốn cho LQ_Công ty  TNHH TM-DV Thanh Long.

Ngoài ra, bản án còn qquyết định về án phí sơ thẩm và phúc thẩm của các đương sự theo quy định của pháp lLuật.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 10/03/2005 bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy có đơn khiếu nại gửi Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao đề nghị kháng nghị bản án kinh tế phúc thẩm nêu trên với lý do:

- Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Điều 39   Luật doanh nghiệp đối với việc chuyển nhượng phần vốn góp là trái với điểm b khoản 1 Điều 26, Điều 32 và Điều 123 Luật doanh nghiệp.

- Công ty Hwata khôngphải là đương sự trong vụ án này.

Tại quyết định kháng nghị số 04/KN-AKT ngày 12/9/2005, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nhận định:

Căn cứ theo Luật doanh nghiệp năm 1999 thì Điều lệ LQ_Công ty Thành Đạt lập ngày 9/01/1990 không còn phù hợp nữa, bởi vì: Ban đầu LQ_Công ty Thành Đạt thành lập có 8 thành viên góp vốn là 470.000.000 đồng, sau 4 lần thay đổi và chuyển nhượng cổ phần giữa các thành viên trong công ty , nhưng Điều lệ công ty vẫn không thay đổi, đến năm 1997 LQ_Công ty Thành Đạt chỉ còn có hai thành viên đó là bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy và ông BĐ_Lê Ngọc Tình, nay ông BĐ_Lê Ngọc Tình vẫn là Chủ tịch Hội đồng thành viên. Theo điểm b Điều 7 Điều lệ của LQ_Công ty Thành Đạt quy định về việc chuyển nhượng vốn (nếu chuyển nhượng vốn cho người ngoài công ty thì phải được 80% đại diện vốn của công ty ưng thuận). Nhưng Điều 35 quy định quyền và nhiệm vụ của Hội đồng thành viên và Điều 32 quy định việc chuyển nhượng phần vốn góp của Luật doanh nghiệp đều không quy định Hội đồng thành viên quyết định việc chuyển nhượng phần vốn góp. Trong khi đó khoản 1 Điều 123    Luật doanh nghiệp năm 1999 quy định ”Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có Điều lệ không phù hợp với quy định của Luật này, thì công ty  đó phải sửa đổi, bổ sung Điều lệ trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực. Trường hợp quá thời hạn mà Điều lệ công ty không được sửa đổi, bổ sung, thì Điều lệ đó bị coi là không hợp lệ”. Do vậy, giải quyết tranh chấp giữa các thành viên trong Công ty về việc thay đổi thành viên và chuyển nhượng phần vốn góp phải căn cứ vào Luật doanh nghiệp năm 1999, chứ khôngthể căn cứ vào Điều lệ của Công ty.

Luật doanh nghiệp năm 1999 quy định việc công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển nhượng phần góp vốn tại điểm b khoản 1 Điều 26: ”Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại Điều 32 của Luật này”.

Điều 32  Luật doanh nghiệp năm 1999 quy định về chuyển nhượng vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn như sau: ”Thành viên công ty... có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác theo quy định sau đây:

1. Thành viên muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty  với cùng điều kiện;

2. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết”.

Như vậy, Luật không quy định Hội đồng thành viên công ty qquyết định theo thể thức biểu quyết với tỷ lệ ít nhất 51% số vốn của các thành viên dự họp như điểm a khoản 2 Điều 39   Luật doanh nghiệp năm 1999 mà Tòa án cấp phúc thẩm vận dụng để sửa án sơ thẩm, bác đơn khởi kiện của bà NĐ_Thị Thủy là khôngđúng pháp Luật. Hơn nữa Điều 35 Luật doanh nghiệp không điểm nào quy định Hội đồng thành viên có quyền và nghĩa vụ qquyết định việc chuyển nhượng phần góp vốn.

Tại biên bản hoà giải không thành và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm ông BĐ_Lê Ngọc Tình thừa nhận: ông không mua và cũng không giới thiệu người khác mua lại phần góp vốn của bà NĐ_Nguyễn Thị Thủyvì giá bất hợp lý. LQ_Công ty Thanh Long  đều đồng ý mua phần góp vốn của bà NĐ_Thị Thủy với giá 22.500.000.000 đồng và đồng ý thay bà NĐ_Thị Thủy làm thành viên LQ_Công ty Thành Đạt, đồng thời chịu mọi trách nhiệm, nghĩa vụ sau khi được chấp nhận là thành viên của công ty. Do vậy, áp dụng Điều 26; Điều 32  Luật doanh nghiệp để chấp nhận bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy được chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho LQ_Công ty Thanh Long là có cơ sở và đúng pháp Luật. Việc bà Lý cho rằng 50% cổ phần của bà NĐ_Thị Thủy ở  LQ_Công ty Thành Đạt là của  ông ý và  LQ_Công ty Thành Đạt còn nợ  ông   ý tiền đầu tư từ năm 1992. Vấn đề này, Tòa án cấp sơ thẩm khôngxem xét là có cơ sở, vì nếu là sự thật thì bà Lý đã có đơn khởi kiện ra Tòa án. Nhưng thực tế cho đến nay bà  Lý vẫn không khởi kiện ra Tòa án. Do vậy, không vì lý do trên mà làm ảnh hưởng đến việc chuyển nhượng phần góp vốn của bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy cho LQ_Công ty Thanh Long, trong khi LQ_Công ty Thanh Long  chấp nhận mọi nghĩa vụ khi thay thế bà NĐ_Thị Thủy làm thành viên của  LQ_Công ty Thành Đạt.

Trong đơn khởi kiện của bà NĐ_Thị Thủy còn yêu cầu Tòa án giải quyết việc LQ_Công ty Thành Đạt chia lợi nhuận từ năm 2001 đến nay cho bà. Vấn đề này Tòa án các cấp chưa đề cập đến. Như vậy, Tòa án chưa giải qquyết hết các yêu cầu của đương sự. Do vậy, xét thấy cần phải yêu cầu LQ_Công ty Thành Đạt cung cấp tài liệu liên quan đến việc thanh qquyết toán thu nhập của doanh nghiệp với cơ quan thuế ở địa phương, để trên cơ sở đó Tòa án xem xét, qquyết định việc chia lợi nhuận các năm (từ năm 2001 đến nay) cho bà NĐ_Thị Thủy và phải được ghi nhận tại bản án.

Từ nhận định trên, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định:

Kháng nghị bản án kinh tế phúc thẩm số 72/KTPT ngày 24/12/2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, theo hướng: hủy bản án kinh tế sơ thẩm số 243/XX- KTST ngày 28/9/2004 của Tòa án nhân dân thành phố HCM và bản án kinh tế phúc thẩm nêu trên, chuyển hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo thẩm quyền chung. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao Thành biểu giữ nguyên quan điểm xét xử vụ án như    quyết định kháng nghị nêu trên.

XÉ THẤY:

Căn cứ theo khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải qquyết các vụ án kinh tế; khoản 3

Điều 29 Bộ Luật tố tụng dân sự và theo Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì nội dung yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy về việc xin được rút toàn bộ phần vốn góp 50% vốn điều lệ công ty, được sở hữu

50% giá trị tài sản của công ty và được chia lợi nhuận từ năm 2001 đến ngày bà được rút vốn, Tòa án nhân dân thành phố HCM thụ lý đơn và giải qquyết nội dung yêu cầu của bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy là đúng pháp Luật.

Xét về tính hợp pháp của Điều 7 Điều lệ LQ_Công ty Thành Đạt:

Theo khoản 2 Điều 25 Luật công ty năm 1990 quy định: ”Việc chuyển nhượng phần vốn góp vào giữa các thành viên được thực hiện tự do. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người khôngphải là thành viên phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của côngty”. Do đó, Điều 7 Điều lệ của LQ_Công ty Thành Đạt lúc đó là phù hợp với

Luật công ty.

Tuy nhiên, năm 1999   Luật doanh nghiệp đã thay thế   Luật công ty . Điểm b khoản 1 Điều

26   Luật doanh nghiệp năm 1999 quy định:

“Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại Điều 32 của Luật này”.

Điều 32 của   Luật doanh nghiệp quy định về việc chuyển nhượng phần vốn góp: ”Thành viên công ty... có quyền chuyển nhượng... phần vốn góp của mình cho người khác theo quy định sau đây:

1. Thành viên muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty  với cùng điều kiện;

2. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc mua không hết”.

Như vậy, Luật doanh nghiệp khôngcòn hạn chế việc chuyển nhượng vốn ra ngoài công ty là phải có sự đồng ý của nhóm thành viên công ty  đại diện cho 3/4 số vốn điều lệ nữa. Thế nhưng, theo điểm b Điều 7 Điều lệ  LQ_Công ty Thành Đạt quy định”về việc chuyển nhượng phần hùn vốn được ưu tiên thực hiện giữa các thành viên, nếu chuyển nhượng cho người khác ngoài Công ty thì phải được đa số thành viên tiêu biểu ít nhất là 80% vốn Công ty  ưng thuận”. Nếu muốn chuyển nhượng vốn, lại theo Điều lệ công ty là phải có biểu qquyết 80% vốn Công ty ưng thuận thì không thể thực hiện được; hơn nữa, về thực tế LQ_Công ty Thành Đạt hiện nay chỉ còn hai thành viên, vốn góp mỗi người ngang nhau (50/50); như vậy, quy định này của Điều lệ công ty là không còn khả thi. LQ_Công ty Thành Đạt đã có nhiều thay đổi về thành viên và thay đổi đăng ký kinh doanh, nhưng Công ty vẫn không sửa đổi Điều lệ cho phù hợp thực tế và phù hợp quy định mới của pháp Luật. Do đó, đối chiếu với các Điều Luật nêu trên, thì khoản 2 Điều 25 Luật công ty năm 1990 quy định về việc chuyển nhượng vốn đã bị hạn chế; theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật doanh nghiệp thôngqua ngày 12/6/1999 thì: ”... Đối với công ty  trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có Điều lệ kh ng phù hợp với quy định của   Luật này, thì công ty đó phải sửa đổi, bổ sung Điều lệ trong thời hạn hai năm, kể từ ngày   Luật này có hiệu lực. Trường hợp quá thời hạn này mà Điều lệ Công ty không được sửa đổi, bổ sung, thì Điều lệ đó bị coi là không hợp lệ”. Bởi vậy, Điều 7 Điều lệ của LQ_Công ty Thành Đạt đề ngày 9-01-1990 là không còn phù hợp với Luật doanh nghiệp về quy định việc chuyển nhượng phần vốn góp kể từ ngày 12/6/2001. Nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử v   hiệu Điều 7 Điều lệ LQ_Công ty Thành Đạtcăn cứ theo Điều 26; điểm e khoản 1 Điều 29; Điều 32 Luật doanh nghiệp và chấp nhận đơn khởi kiện của bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy là có căn cứ đúng pháp Luật. Tòa án cấp phúc thẩm đã vận dụng Điều 34 và Điều 39   Luật doanh nghiệp để bác đơn khởi kiện của bà NĐ_Thị Thủy là khôngđúng pháp Luật. Vì: Điều 34 chỉ quy định về cơ cấu tổ chức quản lý Công ty: ”Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên phải có: Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc,... Công ty trách nhiệm hữu hạn có trên mười một thành viên phải có Ban kiểm soát... do Điều lệ Công ty quy định”; và Điều 39 cũng chỉ quy định về quyết định của Hội đồng thành viên đối với những việc thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên:

“1. Hội đồng thành viên... quyết định thuộc thẩm quyền bằng hình thức biểu quyết tại

cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản.

2.   quyết định của Hội đồng thành viên được thông qua tại cuộc họp khi:

a. Được số phiếu đại diện ít nhất 51% số vốn của các thành viên dự họp chấp thuận. Tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định;

b. Đối với qquyết định bán tài sản..., sửa đổi và bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại, giải thể công ty... Tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định.

3.    quyết định của Hội đồng thành viên được thông qua dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản... Tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định”; theo Luật doanh nghiệp quy định về quyền hạn nhiệm vụ của Hội đồng thành viên thì Hội đồng thành viên khôngcó quyền qquyết định việc chuyển nhượng vốn của thành viên côngty. Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định điểm b Điều 7 của Điều lệ LQ_Công ty Thành Đạt phù hợp với Điều 34; Điều 39 và Điều 123 Luật doanh nghiệp là không đúng.

Về việc ông BĐ_Lê Ngọc Tình và bà Trịnh Thị Đào(giám đốc công ty) cho rằng có tranh chấp về nguồn tài chính của bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy với Công ty Hwata Vina và với những người thừa kế của  ông   Lý; bà  Lý (là vợ của ông Lý) là Tổng giám đốc công ty Hwata cho rằng 50% cổ phần của bà NĐ_Thị Thủy ở LQ_Công ty Thành Đạt là của ông Lý. Về vấn đề này, nếu sự thật bà Lý đã có đơn khởi kiện đến Tòa án, thì Tòa án cấp sơ thẩm cần xem xét thụ lý đơn của bà Lý để đưa bà Lý vào tham gia tố tụng tại phiên tòa với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải qquyết trong cùng một vụ án.

Mặt khác, tại đơn khởi kiện ngày 21/5/2004 và các buổi hoà giải không thành ngày

13/9/2004 và tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình là xin rút phần vốn góp, được sở hữu tài sản của công ty và được chia lợi nhuận từ năm 2001 đến ngày bà rút vốn. Tuy nhiên, trong khi xét xử Tòa án các cấp mới chỉ xem xét đến việc chuyển nhượng phần vốn góp của bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy, chứ chưa xem xét đến yêu cầu về việc chia lợi nhuận cho bà Đào là còn thiếu sót. Bởi vậy, trước khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm cần xác định rõ nội dung yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy để qquyết định án phí theo đúng quy định của pháp Luật.

Ngoài ra, về phần qquyết định của bản án sơ thẩm Tòa án cấp sơ thẩm đã qquyết định về việc thay đổi danh sách các thành viên góp vốn và yêu cầu Sở kế hoạch và đầu tư thành phố HCM có trách nhiệm thực hiện việc thay đổi đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp theo qquyết định của Tòa án là kh ng đúng. Vì Tòa án chỉ giải qquyết việc được hay khôngđược chuyển nhượng vốn ra ngoài công ty , còn chuyển cho ai, thủ tục chuyển nhượng, thay đổi thành viên là

việc của các thành viên với nhau trong công ty và thuộc thẩm quyền giải qquyết của Sở kế hoạch và Đầu tư.

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 2 Điều 297; và khoản 2 Điều 299

Bộ Luật tố tụng dân sự.

                                                                 QUYẾT ĐỊNH:

Hủy bản án kinh tế phúc thẩm số 72/KTPT ngày 24/12/2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án

nhân  dân  tối  cao  tại  thành  phố  HCM  và  bản  án kinh  tế  sơ  thẩm số  243/XX-KTST  ngày

28/9/2004 của Tòa án nhân dân thành phố HCM đã xét xử vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp thành viên công ty với công ty giữa bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy với LQ_Công ty TNHH lâm sản Thành Đạt, chuyển hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố HCM giải qquyết, xét xử lại sơ thẩm theo đúng quy định của pháp Luật.

Lý do hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm:

Tòa án cấp phúc thẩm bác đơn khởi kiện của nguyên đơn là khôngcó căn cứ, khôngphù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp năm 1999 về việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty;

Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xem xét đầy đủ các yêu cầu của nguyên đơn.

Nguyên nhân dẫn đến việc hủy các bản án sơ thẩm và phúc thẩm:

Thiếu sót trong việc nghiên cứu và vận dụng các quy định của   Luật doanh nghiệp năm 1999

Chưa xác định rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trước khi xét xử sơ thẩm.

 

 

 

 

 

 

 

Tên bản án

Bản án số 20/2014/KDTM-STT Tranh chấp giữa thành viên của công ty và công ty

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English