TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
 

Bản án số: 20/2017/HNGĐ-PT

Ngày: 18/ 4/2017

V/v: “Tranh chấp xin ly hôn”

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM:

1.      Bà Nguyễn Thị Minh Phượng - Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa;

2.      Ông Cao Minh Lễ - Thẩm phán;

3.      Bà Trần Thị Thúy Hà - Thẩm phán.

Bà Nguyễn Thị Tuyết Kiên, cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh An Giang- Thư ký ghi biên bản phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang: Ông Từ Thu Ba – Kiểm sát viên.

Ngày 18 tháng 4 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 07/2017/TLPT-HNGĐ, ngày 01/3/2017 về việc “Tranh chấp xin ly hôn”. Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 327/2016/HNGĐ-ST, ngày 28/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện An Phú bị kháng cáo. Theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  phúc  thẩm  số:  65/2017/QĐ-PT ngày 22/3/2017.

NGUYÊN ĐƠN:

Bà Huỳnh Thị Mau, sinh năm 1966;

BỊ ĐƠN:

Ông Phạm Văn Mít, sinh năm 1968.

Cùng địa chỉ: Tổ 16, ấp Vĩnh Ngữ, xã Vĩnh Hậu, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Tất cả các đương sự đều có mặt tại phiên tòa.

Theo nội dung án sơ thẩm:

NHẬN THẤY:

Theo đơn xin ly hôn và bản tự khai cùng ngày 16/9/2016 với các tài liệu kèm theo của bà Huỳnh Thị Mau trình bày: Quan hệ hôn nhân giữa bà với ông Mít được hình thành là thông qua mai mối, cha mẹ hai bên đồng ý đứng ra tổ chức đám cưới cho hai người vào năm 1992, hôn nhân có đăng ký kết hôn trễ hạn vào ngày 12/7/2004 tại UBND xã Vĩnh Hậu. Cuộc sống tuy khó khăn, nhưng vẫn sống hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, do ông Mít lo ăn chơi cờ bạc, mọi chuyện trong nhà một mình bà lo liệu, tài sản có được ông lấy bán cũng vì để thỏa mãn máu đỏ đen, khi bà lên tiếng thì ông kiếm chuyện đánh đập, ông đã từng bị Công an bắt giữ và bị xử phạt hành chính, nhưng vẫn không từ bỏ. Nay bà xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà với ông Mít là không còn, bà xin ly hôn với ông Mít.

Về quan hệ con chung: Trong quá trình chung sống, bà với ông Mít có 03 con chung. 1/ Phạm Văn Thơm, sinh ngày 15/02/1994; 2/ Phạm Văn Thanh, sinh ngày 11/10/2000; 3/ Phạm Thị Bích Thanh, sinh ngày 08/11/2004. Hiện Thơm đã trưởng thành, bà không yêu cầu. Riêng hai cháu Văn Thanh, Bích Thanh tùy ý nguyện của chúng, nếu sống với bà; bà tiếp tục nuôi và không yêu cầu ông Mít cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Bà với ông Mít không có tài chung và cũng không có nợ chung.

Tòa án đã thông báo hợp lệ ông Phạm Văn Mít để tham gia hòa giải, nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do.

Tại  bản  án  hôn  nhân  gia  đình  sơ  thẩm  số  327/2016/HNGĐ-ST,  ngày 28/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện An Phú đã tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Huỳnh Thị Mau.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Mau được ly hôn với ông Phạm Văn Mít.

Về quan hệ con chung: Bà Huỳnh Thị Mau được tiếp tục nuôi hai con chung. 1/ Phạm  Văn  Thanh,  sinh  ngày  11/10/2000;  2/  Phạm  Thị  Bích  Thanh,  sinh  ngày 08/11/2004. Công nhận tự nguyện của bà Mau không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con là không cố định, sẽ có thay đổi khi có yêu cầu chính đáng của một hoặc cả hai bên.

Trong thời gian nuôi con, bà Mau cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông Mít trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí hôn nhân sơ thẩm, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 11 tháng 01 năm 2017 bị đơn ông Phạm Văn Mít làm đơn kháng cáo với nội dung: Yêu cầu xem xét lại bản án sơ thẩm vì không đồng ý ly hôn.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bà Mau vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, ông Mít vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, hội đồng xét xử đã chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý đến khi xét xử; các đương sự cũng đã chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Căn cứ vào lời trình bày của bà Mau và các biên bản xác minh tại địa phương thì mâu thuẫn giữa ông Mít và bà Mau là trầm trọng, nên cấp sơ thẩm cho bà Mau được ly hôn với ông Mít, giao con chung cho bà Mau nuôi dưỡng là có căn cứ. Ông Mít kháng cáo không đồng ý ly hôn nhưng không cung cấp được chứng cứ mới do đó không có cơ sở chấp nhận, đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Mít, giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm.

XÉT THẤY:

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm ông Phạm Văn Mít làm đơn kháng cáo và nộp tạm ứng án phí trong hạn luật định nên được chấp nhận.

- Về quan hệ hôn nhân:

Bà Mau và ông Mít kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hậu huyện An Phú nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chung sống đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, theo bà Mau nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn là do ông Mít cờ bạc, không làm tròn trách nhiệm làm chồng, làm cha, nhiều lần đem tài sản vợ chồng bán để cờ bạc, có nhiều lần bà Mau bị ông Mít đánh. Cấp sơ thẩm nhận định hôn nhân giữa bà Mau và ông Mít là trầm trọng nên cho bà Mau được ly hôn với ông Mít. Ông Mít kháng cáo không đồng ý ly hôn với bà Mau và nêu nhiều lỗi của bà Mau, cụ thể là nhiều lần ông bắt gặp bà Mau có quan hệ tình cảm với người khác và nhiều lần có hành vi bạo hành với ông, tuy nhiên ông Mít không có chứng cứ gì để chứng minh bà Mau không chung thủy và bạo hành với ông. Ngược lại qua xác minh tại địa phương thì ông Mít và bà Mau có mâu thuẫn từ nhiều năm nay, nguyên nhân là do ông Mít thường xuyên cờ bạc, trộm cắp, khi bà Mau khuyên can thì ông Mít nhiều lần đánh bà Mau gây thương tích báo công an xã có làm việc nhiều lần, nhưng do ông Mít bị bệnh nên không thể giam giữ mà cho về, khi trở về thì ông Mít còn tệ hơn, … ông bà có nhiều lần gây cãi có mặt của cán bộ xã và Công an, Đoàn thể đã hàn gắn nhưng không thành;

…Như vậy căn cứ vào kết quả xác minh thì nguyên nhân dẫn đến việc bà Mau xin ly hôn là do lỗi của ông Mít, ông Mít đã có hành vi bạo lực gia đình với bà Mau, cờ bạc, … do đó hôn nhân của bà Mau và ông Mít là trầm trọng, tại phiên tòa bà Mau khẳng định tình cảm vợ chồng không còn, không muốn hàn gắn, cương quyết xin ly hôn với ông Mít, nên hôn nhân của bà Mau và ông Mít có kéo dài cũng không hạnh phúc, do đó cấp sơ thẩm cho bà Mau được ly hôn với ông Mít là hoàn toàn phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

- Về con chung: Bà Mau và ông Mít có ba con chung, một cháu đã trưởng thành, còn hai cháu Phạm Văn Thanh, sinh ngày 11/10/2000 và Phạm Thị Bích Thanh, sinh ngày 08/11/2004, cả hai cháu Văn Thanh, Bích Thanh hiện nay đều do bà Mau trực tiếp nuôi dưỡng, cả hai cháu đều có nguyện vọng được sống với bà Mau, do đó cấp sơ thẩm giao hai cháu Văn Thanh, Bích Thanh cho bà Mau được quyền nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp với điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về cấp dưỡng bà Mau không có yêu cầu nên không đề cập.

Ông Mít kháng cáo yêu cầu được đoàn tụ với bà Mau nhưng không cung cấp được chứng cứ mới nên không có cơ sở chấp nhận, do đó cần giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện An Phú.

- Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Mít phải chịu 300.000đ, khấu trừ vào 200.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0005631 ngày 11/01/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện An Phú, ông Mít phải nộp thêm 100.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Phúc xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Văn Mít.

Giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 327/2016/HNGĐ-ST, ngày 28/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện An Phú.

- Về án phí phúc thẩm: Ông Mít phải chịu 300.000đ, khấu trừ vào 200.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0005631ngày 11/01/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện An Phú, ông Mít phải nộp thêm 100.000đ.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

- TAND Cấp cao;

- VKSND - AG;

- TAND – An Phú;

- THA – An Phú;

- Các đương sự;

- Văn phòng;

- Phòng NVKT;

- Tòa Dân Sự.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN   CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

 

 

 

 

 

 

Nguyễn Thị Minh Phượng

 

 

 

 

 

 

 

 

Tên bản án

Bản án: số 20/2017/HNGĐ-PT ngày 18/04/2017 của TAND tỉnh An Giang

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án