TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X THÀNH PHỐ HCM

Bản án số: 235/2013/KDTM-ST

Ngày: 24/5/2013

V/v: “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

--------------
 

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X – THÀNH PHỐ HCM

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Bà Lê Thị Hoàng T - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
2. Ông Trần Phú L - Hội thẩm nhân dân
3. Bà Tiêu Kim Đ - Hội thẩm nhân dân

Bà Nguyễn Thị Thu – Cán bộ Tòa án nhân dân Quận X, Tp. HCM - Thư ký phiên toà

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận X, Tp. HCM tham gia phiên tòa: Bà Đỗ Thị Thu – Kiểm sát viên.

Từ ngày 17 tháng 5 năm 2013 đến ngày 24 tháng 5 năm 2013, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận X địa chỉ 27 đường TT - Phường 14 Quận X xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 45/2009/TLST-KDTM ngày 04 tháng 11 năm 2009 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ” theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2013/QĐ-HPT ngày 02 tháng 4 năm 2013 v Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2013/QĐXX-ST ngày 07 tháng 5 năm 2012 giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

NĐ_Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Trung Tín.

Trụ sở: 176 VTS, Phường 7, Quận Y, Thành phố HCM. Có Ông Phạm Chí Thanh - Sinh năm: 1978.

Và Bà Nguyễn Ngọc Thuỳ - Sinh năm: 1971.

Đại diện theo giấy ủy quyền số 02/2012/GUQ-AP ngày 05/12/2012.

BỊ ĐƠN:

BĐ_Công ty cổ phần đầu tư và sản xuất Connec.

Trụ sở: 14 NTT, Phường 12, Quận Y, Thành phố HCM. Có Ông Trương Ngọc Ánh - Sinh năm: 1983.

Đại diện theo giấy ủy quyền số 34/GUQ ngày 01 tháng 6 năm 2012. (Các đương sự có mặt tại Tòa)

NHẬN THẤY:

Tại đơn khởi kiện ngày 01/10/2009 của NĐ_Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Trung Tín và các lời khai tại Tòa án nhân dân Quận X, đại diện NĐ_Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Trung Tín trình bày như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 10/2007, giữa NĐ_Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Trung Tín (sau đây gọi tắt là NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín) và Công ty Cổ phần Kỹ thuật Xây dựng Công Nghiệp nay đổi tên mới là BĐ_Công ty cổ phần đầu tư và sản xuất Connec (gọi tắt là BĐ_Công ty Connec) có ký với nhau 3 hợp đồng kinh tế, gồm hợp đồng số 29/2007 /HĐKT ngày 02/10/2007, NĐ_Công ty TNHH Dịch Vụ Bảo Vệ Trung Tín là đơn vị bảo vệ an ninh tại nhà máy gạch TERRAZZO CONNEC tại địa chỉ 65A đường số 5A khu công nghiệp BD. Hợp đồng số 30/2007 /HĐDV ngày 14/11/2007, NĐ_Công ty TNHH Dịch Vụ Bảo Vệ Trung Tín là đơn vị bảo vệ an ninh tại khuôn viên tường rào nhà máy gạch ngói CONNEC MP tọa lạc tại Thị Trấn MP, huyện BC, Tỉnh BD. Hợp đồng số 850- HĐBV/2008 ký ngày 31/12/2008 NĐ_Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Trung Tín cung cấp dịch vụ bảo vệ và kiểm soát tài sản tại cửa chính văn phòng làm việc của công ty Cổ phần Kỹ thuật Xây dựng Công Nghiệp số 432-434 đường 3-2, Phường 12, Quận X, Thành phố HCM.

Sau khi đã ký kết hợp đồng, NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu trong ba hợp đồng nêu trên đó. Cụ thể: đối với hợp đồng số 29 thời hạn thực hiện hợp đồng là 12 tháng kể từ ngày 02/10/2007 đến hết ngày 02/10/2008 là hết hạn, tuy nhiên khi hết hạn hợp đồng, mặc dù hai bên có thỏa thuận sẽ tiếp tục gia hạn thêm nhưng lại thỏa thuận miệng mà không ký gia hạn hợp đồng, và bên BĐ_Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Connec vẫn tiếp tục sử dụng dịch vụ bảo vệ này của NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín. Và về thanh toán phí dịch vụ: BĐ_Công ty Connec đã thanh toán cho NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín nhưng vẫn còn nợ phí dịch vụ phát sinh từ ngày 01/1/2009 đến ngày 24/01/2009, là 24 ngày, tính thành tiền sau khi đã cộng thuế gia trị gia tăng là 9.768.000 đồng, từ đó và cho đến ngày 13/5/2009, NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín bàn giao lại mục tiêu và chấm dứt việc bảo vệ theo địa điểm của hợp đồng số 29. Tương  tự,  đối  với  hợp  đồng  số  30-HĐDV  năm  2007,  ngày  14/11/2007  đến  ngày 13/11/2008 là thời hạn hợp đồng, tuy nhiên khi đến thời hạn cuối thì hai bên vẫn thỏa thuận tiếp tục thực hiện việc cung ứng dịch vụ nêu trên, và cũng chỉ là thỏa thuận miệng mà không ký hợp đồng mới, cho đến ngày 13/5/2009, hai bên lập biên bản bàn giao mới chấm dứt việc bảo vệ cho BĐ_Công ty Connec , số tiền nợ mà BĐ_Công ty Connec còn thiếu NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín được NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín tính là từ ngày 14/2/2008 cho đến ngày 13/5/2009 là 292.875.000 đồng. Đối với hợp đồng 850/2008, đôi bên thỏa thuận thời hạn hợp đồng là từ ngày 31/05/2008 đến ngày 30/5/2009. Tuy nhiên đến ngày 24/01/2009, hai bên thỏa thuận miệng chấm dứt hợp đồng này. Theo NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín thì số tiền nợ còn lại của hợp đồng này, BĐ_Công ty Connec chưa thanh toán phí dịch vụ, nợ còn lại từ ngày 01/01/2009 đến ngày 24/01/2009 là 24 ngày, tính thành tiền là 6.864.000 đồng (bao gồm phí thuế giá trị gia tăng) cho đến nay BĐ_Công ty Connec vẫn chưa thanh toán cho NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín nên nay NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín yêu cầu tòa án giải quyết buộc BĐ_Công ty Connec phải trả cho NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín số tiền nợ của ba hợp đồng nêu trên và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo mức lãi suất quy định tại Điều 306 của Luật Thương Mại. Mức lãi phạt chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín yêu cầu là 1,5%/tháng.

Người đại diện công ty BĐ_Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Connec Sài Gòn trình bày

như sau:

BĐ_Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Connec thừa nhận có ký 3 hợp đồng với nội dung như trình bày của NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín. Tuy nhiên về số tiền nợ mà NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín nêu thì BĐ_Công ty Connec Sài Gòn không thừa nhận. Với lý do là: đối với hợp đồng số 29, BĐ_Công ty Connec đã thanh toán xong toàn bộ công nợ tính đến thời điểm hết hạn hợp đồng. Sau đó thì hai bên không thuê mướn nhau gì thêm nên không có việc NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín tiếp tục thực hiện hợp đồng miệng như trình bày của đại diện nguyên đơn.

Đối với hợp đồng số 30, thời hạn từ ngày 14/11/2007 đến ngày 13/11/2008. Do đó kể từ ngày 13/11/2008, BĐ_Công ty Connec cũng không có hợp đồng miệng gì về việc tiếp tục bảo vệ BĐ_Công ty Connec tại nhà máy gạch ngói MP. Số tiền nợ mà BĐ_Công ty Connec còn thiếu NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín chỉ còn nợ là: 61.875.000 đồng. Tuy nhiên đối với hợp đồng này BĐ_Công ty Connec nay đã có yêu cầu phản tố đề nghị NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín phải thanh toán chi phí bồi thường thiệt hại do để xãy ra tình trạng mất cắp tại nhà máy gạch ngói MP rạng sáng ngày 10/10/2008, bảo vệ nhà máy đã để xảy ra việc trộm đột nhập vào nhà máy và lấy đi 02 két sắt cùng số tiền 245.000.000 đồng. Vụ việc hiện đang được cơ quan điều tra Công an huyện BC, tỉnh BD khởi tố và đang trong quá trình điều tra. Nay BĐ_Công ty Connec yêu cầu sau: Việc này khi nào cơ quan điều tra trả lời kết quả thì BĐ_Công ty Connec sẽ có ý kiến về việc mất trộm sau. Riêng về nợ thì BĐ_Công ty Connec chỉ đồng ý trả cho NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín số tiền 61.875.000 đồng. BĐ_Công ty Connec yêu cầu NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín chi trả số tiền bồi thường số tiền bị mất trộm là 228.565.000 đồng và 5.000.000 đồng tiền chiếc két sắt theo biên bản ghi nhận sự việc ngày 05/2/2012 mà Tòa án đã lập, xác định giá trị còn lại 02 chiếc két sắt là 5.000.000 đồng. Tổng cộng thiệt hại vụ mất trộm là 233. 565.000 đồng.

Đối với hợp đồng số 850/ 2008, BĐ_Công ty Connec thừa nhận có hợp đồng bảo vệ với NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín, thời hạn hợp đồng này từ ngày 31/05/2008 đến ngày 30/5/2009. Tuy nhiên, đến ngày 24/01/2009 hai bên thỏa thuận miệng chấm dứt hợp đồng này, và cũng không còn thiếu lại NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín tiền, mà đã thanh toán xong tiền nợ dịch vụ bảo vệ. Phản bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của phía bị đơn, đại diện nguyên đơn cho rằng việc mất trộm xãy ra đêm ngày 10/10/2008 tại nhà máy gạch ngói MP, nguyên đơn không đồng ý chịu trách nhiệm vì phạm vi bị mất trộm là nằm trong văn phòng làm việc của công ty, bảo vệ không được quyền vào và tiếp cận mục tiêu này, mà nhiệm vụ của bên cung ứng bảo vệ là chỉ bảo vệ mặt an ninh bên ngoài khuôn viên nhà máy. Đồng thời khi nhận nhiệm vụ bảo vệ nhà máy, bên cung ứng không hề được bàn giao các tài sản bị mất trộm như két sắt và tiền bạc, do vậy chiếu theo Điều VII của hợp đồng quy định về “Hạn chế trách nhiệm của bên B” (miễn trách nhiệm bồi thường khi: thiệt hại mất mát đó xảy ra ở khu vực thuộc mục tiêu bên A nhưng nhân viên bên B không được phép vào theo quy định bên A.

Thiệt hại xảy ra ngoài phạm vi không gian bảo vệ của bên B.

Những mất mát thuộc về tài sản cá nhân không thuộc trách nhiệm của bảo vệ. Đồng thời, khi khám nghiệm hiện trường và lời khai tại Công an huyện BC thì BĐ_Công ty Connec đã đưa ra các con số về số tiền bị mất hầu như là không chính xác.Mặt khác, tại hiện trường thì thu thập được 2 két sắt bị hư hại hiệu Diploma và hiệu Angle nhưng khi thẩm định giá trị tài sản bị trộm thì phía BĐ_Công ty Connec lại nộp cho Tòa án phiếu bảo hành két sắt hiệu HUNDAi, do vậy NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín không đồng ý bồi thường khi chưa có kết quả giám định và kết luận của cơ quan điều tra về việc mất trộm nêu trên theo quy định tại Điều VI của hợp đồng số 30.

Sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phn v Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc tranh luận tại phin tịa theo biên bản phát biểu ngày 17/5/2013.

XÉT THẤY:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Quan hệ tranh chấp trong vụ án NĐ_Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Trung Tín và BĐ_Công ty cổ phần đầu tư và sản xuất Connec là quan hệ tranh chấp hợp đồng dịch vụ thuộc quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự đã sửa đổi bổ sung năm 2011. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận X.

Theo kết quả thu thập chứng cứ về việc đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch Đầu tư đối với Công ty Cổ phần Kỹ thuật Xây dựng Công nghiệp thì công ty này có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4103006569 ngày 03/05/2007, địa chỉ trụ sở chính tại 430-432-434 đường 3 tháng 2, Phường 12, Quận X. Đến tháng 3 năm 2011, lần thứ 3 thay đổi nội dung giấy chứng nhận dăng lý kinh doanh công ty này đã đổi tên thành BĐ_Công ty cổ phần đầu tư và sản xuất Connec, thay đổi lần thứ 5 đã đổi chuyển trụ sở về địa chỉ mới tại số 14 NTT, Phường 12, Quận Y, Thành phố HCM. Xét do vụ án đã được Tòa án nhân dân Quận X thụ lý từ tháng 11 năm 2009, đến tháng 3 năm 2011 mới thay đổi địa chỉ về Quận Y, nên Tòa án nhân dân Quận X tiếp tục giải quyết vụ án.

Xét các giấy ủy quyền của NĐ_Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Trung Tín và giấy ủy quyền của BĐ_Công ty cổ phần đầu tư và sản xuất Connec, đều lập và có sự thay đổi ủy quyền lại cụ thể đối với NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín bà Nguyễn Bích Thủy và ông Phạm Chí Thanh đại diện thay thế cho bà Nguyễn Thúy Phượng và ông Phạm Chí Thanh, đối với BĐ_Công ty Connec ông Trương Hoài Bửu Anh đại diện thay thế ông Lê Quang Chiến; Các giấy ủy quyền trên đều lập và thay thế giấy ủy quyền cũ một cách hợp lệ nên Tòa chấp nhận tư cách đại diện của các đương sự nêu trên.

Về nội dung vụ án:

Căn cứ vào 3 hợp đồng kinh tế số số 29/2007 /HĐKT ngày 02/10/2007, hợp đồng số 30/2007/HĐDV Ngày 14/11/2007, Hợp đồng số 850- HĐBV /2008 ký ngày 31/12/2008 giữa công ty Cổ phần Kỹ thuật Xây dựng Công nghiệp và NĐ_Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Trung Tín và sự thừa nhận của hai bên nguyên đơn và bị đơn nên đã có đủ cơ sở kết luận hai bên đã có quan hệ hợp đồng dịch vụ mà bên NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín là bên cung ứng dịch vụ. Bên yêu cầu cung ứng dịch vụ là BĐ_Công ty Connec.

Để giải quyết về số nợ ba hợp đồng đã ký kết, yêu cầu này Hội đồng xét xử phân tích từng vấn đề như sau:

Đối với hợp đồng số 29 và 580, BĐ_Công ty Connec cho rằng đã thanh toán xong nợ không có sự thỏa thuận miệng tiếp tục thêm hợp đồng, nên không đồng ý trả thêm bất cứ khoản tiền nợ dịch vụ nào cho NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử nhận thấy bị đơn không có chứng cứ gì chứng minh cho việc đã thanh toán xong nợ theo hợp đồng dịch vụ đã ký nêu trên ngoài sự thừa nhận của nguyên đơn là bị đơn đã thanh toán xong tiền phí dịch vụ, chỉ còn thiếu lại số tiền của hợp đồng số 29 là 9.768.000 đồng và hợp đồng số 850/2008 là 6.864.000 đồng.

Hội đồng xét xứ nhận thấy đối với hợp đồng số 29, theo nguyên đơn khai trình tiền nợ còn lại là 9.768.000 đồng là do nguyên đơn tính phí dịch vụ của 24 ngày cung ứng dịch vụ bảo vệ từ 01/01/2009 đến ngày 24/01/2009 , theo hóa đơn thuế giá trị gia tăng số 0184992 ngày 21/8/2009. Đây là khoảng thời gian mà theo nguyên đơn là nguyên đơn đã cung ứng dịch vụ vụ tiếp tục cho bị đơn là do đôi bên có thỏa thuận miệng, chứ chưa có văn bản ký bổ sung thêm thời hạn. Phía bị đơn cho rằng đã hết thời han hợp đồng, và bên thuê dịch vụ không tiếp tục yêu cầu cung ứng dịch vụ bảo vệ, nhưng những căn cứ trong hồ sơ đã cho thấy đối với hợp đồng số 29 bên cung ứng dịch vụ vẫn tiếp tục thực hiện việc bảo vệ các mục tiêu tại địa điểm nhà máyTerrazzo khu công nghiệp ĐN cho đến ngày 24/01/2009 hai bên mới chính thức lập biên bản lúc 11h 45 phút cùng ngày 24/01/2009, bàn giao lại mục tiêu, trong biên bản này cũng ghi rõ “bằng văn bản này chúng tôi bàn giao lại nhà máy cho cơ quan chủ quản tự quản lý. Và NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín rút quân khỏi nhà máy Terrazzo sau khi đại diện hai bên cơ quan ký kết”. Do vậy, có cơ sở để khẳng định rằng ít nhất cho đến ngày 24/01/2009, hai bên mới thống nhất được việc ngưng cung ứng dịch vụ bảo vệ tại địa điểm của hợp đồng số 29 đã ký kết. Riêng hợp đồng số 580, thì hai bên lại thừa nhận là thỏa thuận miệng ngưng thực hiện vào ngày 01/01/2009, bị đơn không có chứng cứ nào khác chứng minh cho việc đã có văn bản yêu cầu ngưng cung ứng dịch vụ đối với bất cứ hợp đồng nào, kể cả và cả hợp đồng số 30/2008, vì một tài liện là Công văn số 46 ngày 29/12/2008 mà bị đơn nộp cho tòa là thông báo chấm dứt hợp đồng vào ngày 31/12/ 2009 cũng không hề có chử ký của nguyên đơn nhận được, cũng như nguyên đơn không thừa nhận đã được thông báo ngưng cung cấp dịch vụ tại các địa điểm hợp đồng đã ký kết.

Một tài liệu khác là Công văn số 140 ngày 15/11/2008, qua thẩm vấn tại Tòa, người đại diện bị  đơn  thừa nhận có  nhận  được Công văn  số  140/2008-CV-NV trả lời  Công văn  số 30/08/CVKTXDCN, của NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín gửi BĐ_Công ty Connec, Hội đồng xét xử nhận thấy trong công văn này NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín đồng ý sẽ bố trí thêm lực lượng bảo vệ cho đủ quân số theo yêu cầu của BĐ_Công ty Connec, kể từ ngày 17/11/2008. Điều đó cho thấy mặc dù thời hạn của hợp đồng số 29 là hết hạn vào ngày 02/10/2008; thời hạn của hợp đồng số 30 hết hạn vào ngày 13/11/2008, nhưng hai bên vẫn có sự thỏa thuận riêng nhằm tiếp tục duy trì các hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ tại các mục tiêu.

Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 526 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về tiếp tục thực hiện hợp đồng dịch vụ có quy định: “Sau khi đã kết thúc thời hạn dịch vụ mà công việc chưa hoàn thành và bên cung ứng dịch vụ vẫn tiếp tục thực hiện công việc, còn bên thuê dịch vụ biết nhưng không phản đối thì hợp đồng dịch vụ đương nhiên được tiếp tục thực hiện theo nội dung đã thỏa thuận cho đến khi công việc được hoàn thành”. Hội đồng xét xứ kết luận việc hoàn thành công việc của bên cung ứng dịch vụ kết thúc vào ngày bàn giao theo các biên bản của hợp đồng số 29 và 30 là vào ngày 13/5/2009 và biên bản bàn giao mục tiêu của hợp đồng số 480 là vào ngày 01/01/2009. Từ đó, buộc bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ trả tiền thuê dịch vụ cho nguyên đơn theo yêu cầu của nguyên đơn là đúng quy định pháp luật.

Do bị đơn không có chứng từ về việc đã thanh toán xong nợ, nên dựa trên sự tự nguyện của nguyên đơn thừa nhận bị đơn đã thanh toán đến đâu, Hội đồng xét xứ chấp nhận yêu cầu đòi nợ còn thiếu đến đó.Điều này là phù hợp quy định về nghĩa vụ trả tiền thuê dịch vụ tại Khoản 4 Điều 523, Khoản 3 Điều 524 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “bên thuê dịch vụ phải trả tiền thuê dịch vụ tại địa điểm thực hiện công việc khi hoàn thành dịch vụ, nếu không có thỏa thuận khác”.

Bên cạnh đó nguyên đơn còn yêu cầu tính lại phat chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán từ khi chậm thực hiện nghĩa vụ cho đến thời điểm xét xử hiện nay. Mức lãi phạt chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là 1,5%/tháng (tương đương 18%/năm) trên thời gian chậm thanh toán của từng số dư nợ mổi hợp đồng. Điều này là phù hợp Điều 306 Luật Thương mại, và mức lãi phạt như trên là thấp hơn lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường hiện nay, điều này là có lợi cho bị đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu tính lãi như trên.

Cụ thể đối với hợp đồng số 29, số nợ tính từ ngày 01/01/2009 đến ngày 24/01/200 tính theo hóa đơn thuế giá trị gia tăng là 9.768.000 đồng. Thời gian chậm thực hiện nghĩa vụ thánh toán tính từ ngày bắt đầu từ ngày 25/01/2009 đến ngày xét xử vụ án 24/5/ 2013, được làm tròn là 4 năm. 9.768.000 đồng x 18%/12 tháng x 4 năm = 7.032.960 đồng.

Đối với Hợp đồng số 480, số tiền thực hiện cung ứng dịch vụ chưa được thanh toán là 6.864.000 đồng theo hóa đơn thuế giá trị gia tăng số 0184991 ngày 21/8/2009, thời gian chậm trả tính từ ngày 01/01/2009 đến ngày xét xử là 4 năm 5 tháng. 6.864.000 đồng x 18%/12 tháng x 4 năm 5 tháng = 5.456.880 đồng.

Đối với hợp đồng số 30, nguyên đơn cho rằng nợ hợp đồng dịch vụ tính đến ngày 13/05/2009 và còn nợ là 292.875.000 đồng. Thời gian chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là tính từ ngày 13/5/2009 tính đến ngày xét xử là 4 năm 10 ngày.

292.875.000 đồng x 18%/12 tháng x 4 năm 10 ngày = 212.334.375 đồng. Tổng các khoản vốn gốc phải trả là:

292.875.000 đồng + 6.864.000 đồng + 9.768.000 đồng = 309.507.000 đồng. Lãi phạt chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán của 3 khoản vốn gốc là:

7.032.960 đồng + 5.456.880 đồng + = 212.334.375 đồng = 224.824.215 đồng.

Tổng cộng vốn và tiền lãi phạt là:

309.507.000 đồng + 224.824.215 đồng = 534.331.255 đồng.

Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về đòi bồi thường thiệt hại do trong quá trình thực hiện hợp đồng số 30, bên cung ứng dịch vụ đã không làm tròn trách nhiệm bảo vệ mục tiêu, để xãy ra việc mất trộm vào ngày 10/10/2008, làm mất 01 két sắt hiệu Angle và một két nhỏ hiệp Diploma, và số tiền bị mất cắp là 228.565.000 đồng, nay bị đơn yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại bị mất là và trị giá 2 két sắt là 5.000.0000 đồng. Tổng cộng 233.565.000 đồng.

Xem xét yêu cầu này, Hội đồng xét xử nhận thấy rằng trong hợp đồng số 30 có những quy định về trách nhiệm của mỗi bên bao gồm những điều khoản ghi rõ:

“Mục tiêu bảo vệ lại được quy định ngay điều I mục 1.1 của hợp đồng: “Bên A đồng ý thuê B làm bảo vệ….. trong hợp đồng mục tiêu sau đây:

Bảo vệ bên trong khuôn viên tường rào nhà máy gạch ngói MP và được chỉ định tại địa chỉ đồi 29 khu phố 2 Thị trấn MP, huyện BC, tỉnh BD, gọi tắt là mục tiêu bảo vệ số 2”.

Bố trí nhân viên hợp đồng ghi vị trí “khu vực cổng 1, khu vực cổng 2 khu vực tuần tra phía sau”.

Điều 2.3: Phạm vi dịch vụ bảo vệ: “Bảo vệ an ninh và các loại vật tư, tài sản thiết bị của bên A trong phạm vi bên trong tường rào thuộc khu vực mục tiêu bảo vệ…”.

Điều VII: Hạn chế trách nhiệm của bên B. “Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại mất mát đó xảy ra ở khu vực thuộc mục tiêu bên A, nhưng nhân viên bên B không được phép vào theo quy định bên A. Những hoạt động nằm ngoài tầm hoạt động, kiểm soát và can thiệp của bên B.

Thiệt hại xảy ra ngoài phạm vi không gian bảo vệ của bên B.

Những mất mát thuộc về tài sản cá nhân không thuộc trách nhiệm của bảo vệ.

Tuy nhiên, từ những quy định của hợp đồng, Hội đồng xét xử nhận thấy NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín cũng không hề được bàn giao mục tiêu bảo vệ là các két sắt trong phòng làm việc của công ty, toàn bộ hồ sơ không hề có thể hiện biên bản bàn giao tài sản bên trong công ty. Hai bên hoàn toàn không có biên bản bàn giao tài sản cá nhân đối với số tiền 228.565.000 đồng tiền mặt mà theo đại diện của BĐ_Công ty Connec cho rằng do thủ quỹ đã để trong két sắt.

Xem xét biên bản khám nghiệm hiện trường, Hội đồng xét xử nhận thấy thì việc trộm xảy ra tại phòng nghiệp vụ của nhà máy. Riêng hai chiếc két sắt khi được phát hiện thì một chiếc ở phạm vi bên trong phòng nghiệp vụ, còn 01 két sắt còn lại lại nằm bên ngoài khuôn viên phía sau tường rào nhà máy gạch ngói CONNEC khoảng 200 mét. Điều này cho thấy rằng, các tài sản này nếu bị trộm, cũng không nằm trong tầm kiểm soát và can thiệp của NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín. Ở một khía cạnh khác Hội đồng xét xử cũng nhận thấy tài sản bị trộm là 2 chiếc két sắt theo ghi nhận tại hiện trường vụ trộm để lại là hiệu Angle và hiệu Diploma nhưng khi Tòa án yêu cầu thì BĐ_Công ty Connec mới giao nộp cho Tòa giấy bảo hành của két sắt hiệu HUNDAI, là không phù hợp với diễn biến việc mất trộm.

Xét các điều khoản về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng số 30, có quy định rõ:

“Nguyên đơn chỉ phải bồi thường thiệt hại cho bị đơn khi và chỉ khi cơ quan điều tra nguyên nhân mất mát đó không phải do những hành động của nhân viên bên A mà là chính hành động bảo vệ của bên B” …

Theo kết quả trả lời xác minh từ cơ quan điều tra cho Tòa án nhân dân Quận X, của Công an huyện BC, tỉnh BD thì: “Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, khám nghiệm hiện trường, xác minh thu thập tài liệu chứng cứ xác định tính chất vụ án, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng gây án. Đồng thời cơ quan điều tra có giấy triệu tập ông Lê Quang Chiến đại diện công ty đến để trả lời kết quả điều tra nhưng ông Chiến đã không đến cơ quan điều tra”.

Do vậy, yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản do việc mất trộm này của bị đơn chưa đủ điều kiện để yêu cầu được xem xét. Tuy nhiên, dựa trên các thỏa thuận trên hợp đồng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, Hội đồng xét xử căn cứ vào điều khoản miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng đã thấy rằng bên cung ứng dịch vụ không phải chịu trách nhiệm, khi tài sản bị trộm không nằm trong tầm hoạt động, kiểm soát và can thiệp của NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín. Từ đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn về đòi bồi thường thiệt hại số tiền hai két sắt bị trộm cạy làm hư hỏng được trị giá 5.000.000 đồng và bồi thường số tiền bị mất để trong hai két sắt đó là 228. 565.000 đồng, là hoàn toàn phù hợp với thỏa thuận mà hai bên đã ký kết trong hợp đồng số 30/HĐDV/2008.

Án phí dân sự sơ thẩm về kinh doanh thương mại: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định tại Pháp lệnh lệ phí, án phí của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, và bị đơn cũng phải chịu án phí do yêu cầu phản tố không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

- Áp dụng Khoản 2 Điều 32 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi bổ sung năm 2002.

- Áp dụng Điều 306 Luật Thương mại.

- Áp dụng Điều 518, Khoản 4 Điều 523, Khoản 3 Điều 524, Điều 526 Bộ luật Dân sự.

- Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 29, Khoản 1 Điều 131, Điều 199, Điều 245 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005 đ được sửa đổi bổ sung năm 2011.

- Áp dụng Điều 5, Điều 27 Pháp lệnh án phí lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về lệ phí án phí của Tòa án.

- Áp dụng Khoản 1 Mục III Thông tư Liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn về việc xét xử và thi hành án về tài sản.

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

Buộc bị đơn BĐ_Công ty cổ phần đầu tư và sản xuất Connec thanh toán số tiền nợ phí cung ứng hợp đồng dịch vụ cho NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín số tiền vốn là 309.507.000 đồng. Tiền lãi phạt chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là 224.824.215 đồng. Tổng hai khoản là 534.331.255 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của BĐ_Công ty cổ phần đầu tư và sản xuất Connec đòi NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín bồi thường thiệt hại do bị mất cắp đối với số tài sản trị giá:

233.565.000 đồng.

Đôi bên thi hành tại Thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay khi bản án phát sinh hiệu lực

pháp luật.

Kể từ ngày quyết định phát sinh hiệu lực và kể từ ngày có đơn xin thi hành án, nếu bên phải thi hành chưa thi hành các khoản tiền phải nộp thì hàng tháng còn phải chịu mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

Án phí DSST: 34.715.900 đồng (có làm tròn số), bị đơn BĐ_Công ty cổ phần đầu tư và sản xuất Connec chịu, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 6.500.000 theo biên lai thu số

0106 ngày 04/2/2010 biên lai của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X. BĐ_Công ty cổ phần đầu tư và sản xuất Connec còn phải nộp thêm số tiền 28.215.900 đồng. Hoàn lại cho NĐ_Công ty Bảo vệ Trung Tín số tiền 7.725.000 đồng theo biên lai thu số 0100 ngày 03/11/2009 biên lai Chi Cục Thi hành án dân sự Quận X.

Lệ phí định giá: Đã hoàn lại số tiền lệ phí định giá 4.000.000 đồng cho bị đơn theo biên lai thu quyển số 1 ngày 22/6/2012 và biên lai thu số 26 quyển 1 ngày 16/8/2012 của Tòa án nhân dân Quận X cho BĐ_Công ty cổ phần đầu tư và sản xuất Connec.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có thời hạn kháng cáo trong 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

 

 

 

Tên bản án

Bản án số: 235/2013/KDTM-ST Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English