TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X THÀNH PHỐ HCM

Bản án số: 237/2014/KDTM-ST

Ngày: 25/6/2014

Về việc: “Tranh chấp hợp đồng dịch

vụ”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

-----------------

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X- THÀNH PHỐ HCM

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Ông Cao Thanh H  - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

2. Ông Trần Quang - Hội thẩm nhân dân

3. Bà Đặng Mỹ H - Hội thẩm nhân dân

Bà Phạm Thị P – Cán bộ Tòa án nhân dân Quận X, Tp. HCM - Thư ký phiên toà

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận X, Tp. HCM tham gia phiên tòa: Bà Tăng Tố T – Kiểm sát viên.

Trong ngày 18/6/2014 và tuyên án ngày 25/6/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân QUẬN X xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 90/2013/TLST-KDTM ngày 09 tháng 4 năm 2013 về  việc  “Tranh  chấp  hợp  đồng  dịch  vụ”,  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số 624/2014/QĐXX ngày 22 tháng 5 năm 2014, giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến

Trụ sở: 2/32 CT, Phường 5, Quận Y, Thành phố HCM.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Nguyễn Hữu Ngọc là người đại diện theo pháp luật.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông NHB, Đoàn luật sư

Thành phố HCM.

BỊ ĐƠN:

BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định

Trụ sở: 34 LD, Phường BN, QUẬN X, Thành phố HCM.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Phạm Lý Hùng là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 19/12/2013).

Các đương sự có mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY:

- Trong đơn khởi kiện ngày 25/3/2013 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án nhân dân QUẬN X, ông Nguyễn Hữu Ngọc là người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn là NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến trình bày: NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến và BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định có ký Hợp đồng thu xếp công việc vào ngày 16/9/2008 và các phụ lục kèm theo là Phụ lục số I ký ngày 16/10/2008; Phụ lục số II ngày 31/8/2009. Theo nội dung của Hợp đồng thu xếp công việc ký ngày 16/9/2008, NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến là bên trung gian giàn xếp (môi giới) cho phía BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định trao đổi làm việc với Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà (RESCO) để có được khu đất tại khu đô thị mới An Khánh, An Phú thuộc quyền quản lý của Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà (RESCO) để đầu tư xây dựng bệnh viện theo hướng xã hội hoá lĩnh vực y tế; cùng với việc tư vấn, soạn thảo văn bản cho phía BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định để đạt được sự chấp thuận chủ trương của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cho phép thực hiện dự án đầu tư xây dựng bệnh viện trên khu đất này.

Sau khi ký kết Hợp đồng, NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến với tư cách là bên thực hiện dịch vụ thu xếp đã khẩn trương, mẫn cán thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các phạm vi công việc dịch vụ thuộc nội dung thỏa thuận nêu tại Điều 2 của Hợp đồng ngày 16/9/2008 thể hiện xác nhận qua các văn bản ý kiến chủ trương của các cơ quan chức năng chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố HCM, cũng như Ủy ban nhân dân Thành phố HCM, cụ thể là việc đạt được chủ trương chấp thuận dự án đầu tư nêu tại văn bản số 5779/UBND-ĐTMT ngày 5/11/2009 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM đối với dự án xây dựng Bệnh viện quốc tế tại khu đô thị mới An Khánh, An Phú, Quận Z như là công việc quan trọng then chốt và kết quả của việc thực hiện hoàn tất nghĩa vụ của mình theo Hợp đồng ngày 16/9/2008 và phía BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định cũng đã thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc thanh toán phí dịch vụ đợt 2 theo hợp đồng thu xếp và phụ lục I, II.

Tiếp đến, trách nhiệm của BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định là thực hiện thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật và thực hiện thanh toán phí dịch vụ đợt 3. Tuy nhiên, từ khi có được chủ trương của Uỷ ban nhân dân Thành phố HCM ký ngày 05/11/2009 đến nay, BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định đã không tích cực và kéo dài thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư; trong khi đó, với tư cách là đơn vị thực hiện dich vụ đã hoàn tất nghĩa vụ theo hợp đồng thu xếp quy định tại Điều 2.

Nhận thấy trong quá trình xin cấp giấy chứng nhận đầu tư của BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định có vướng mắc do còn thiếu thỏa thuận đền bù khoản hổ trợ chi phí cơ sở hạ tầng mà phía của BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định phải hỗ trợ, trả cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà là khoản bù đắp chi phí giải toả đền bù xây dựng cơ sở hạ tầng mà Công ty đã thực hiện trước đây; vướng mắc ở chỗ cần phải có văn bản chỉ đạo của Ủy ban Nhân dân Thành phố để việc ký Hợp đồng thỏa thuận và thu khoản phí hỗ trợ chi phí cơ sở hạ tầng này đúng với quy định của nhà nước. Do đó, để giải quyết khó khăn trên ngày 18/9/2012 NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến và BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định đã ký Phụ lục III của Hợp đồng thu xếp. Quá trình thực hiện, nguyên đơn đã làm các thủ tục dịch vụ về khoản đền bù hỗ trợ cơ sở hạ tầng và kết quả là được sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM và Sở Tài chính; ngày

13/3/2013 BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định và Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà đã đạt được thỏa thuận thu khoản hỗ trợ chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là 2.000.000 đồng/m2 tại khu đô thị An Phú, An Khánh, Quận Z, Thành phố HCM và đến ngày 31/12/2013 BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định đã được Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy Chứng nhận đầu tư số 411043002xxx. Nay NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến yêu cầu Toà án nhân dân QUẬN X buộc BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định phải có nghĩa vụ thanh toán khoản phí dịch vụ lần 3 theo Phụ lục III ký ngày 18/9/2012 là là 200.000 USD theo tỷ giá đô la Mỹ tại thời điểm xét xử.Bị đơn là BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định ủy quyền cho ông Phạm Lý Hùng đại diện trình bày: NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến cho rằng hiện Ủy ban nhân dân Thành phố HCM đã có văn bản chỉ đạo, chấp thuận cho phép BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định trả cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà khoản chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo đơn giá 2.000.000 đồng/m2. BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định cho rằng ý kiến trên của NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến là không có cơ sở và trái với thực tế. BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định khẳng định cho tới ngày hôm nay Ủy ban nhân dân Thành phố HCM vẫn chưa có văn bản nào về việc chấp thuận cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà thu khoản hỗ trợ 2.000.000 đồng/m2, cụ thể là ngày 05/02/2013 văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố HCM gửi cho BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định Công văn số 952 đã thể hiện rõ quan điểm “Ủy ban nhân dân Thành phố không can thiệp vào việc thỏa thuận hỗ trợ chi phí hạ tầng này. Giao Sở Tài chính hướng dẫn các đơn vị có liên quan thực hiện theo quy định”.

BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định cho rằng NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến yêu cầu trả 200.000 USD tiền phí dịch vụ đợt 3 là không phù hợp với thỏa thuận giữa hai bên. Tại Phụ lục III ngày 18/9/2013, BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định và NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến đã thỏa thuận chỉ thanh toán tiền phí dịch vụ đợt 3 cho NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến 200.000 USD, trong đó 100.000 USD được thanh toán trong vòng 02 ngày sau khi có văn bản của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM về việc chấp thuận cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà thu khoản hỗ trợ 2.000.000 đồng/m2. Số tiền còn lại 100.000 USD sẽ được BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định thanh toán cho NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến trong vòng 05 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đầu tư cho phép xây dựng Bệnh viện Quốc tế trên khu đất tại Quận Z. Tuy nhiên cho đến nay Ủy ban nhân dân Thành phố HCM chưa có bất kỳ một văn bản nào chấp thuận cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà thu khoản hỗ trợ 2.000.000  đồng/m2   từ  BĐ_Công  ty  TNHH  phòng  khám  Gia  Định.  Mặt  khác,  ngày 29/11/2013 Ủy ban nhân dân Thành phố HCM ban hành văn bản 9994/VP-ĐT nêu rõ sẽ xem xét cấp giấy chứng nhân đầu tư thành lập Công ty TNHH Bệnh viện Quốc tế Carmel-FMP, chứ không phải BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định.

Vì vậy từ các lý do trên, BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn, từ chối thanh toán tiền phí dịch vụ đợt 3 theo Phụ lục III của Hợp đồng thu xếp ký ngày 18/9/2012 là 200.000 USD cho NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến.

Tại phiên tòa ngày 18/6/2014, người đại diện hợp pháp của NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến yêu cầu Hội đồng xét xử buộc BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định phải có nghĩa vụ thanh toán khoản phí dịch vụ lần 3 theo phụ lục III ký ngày 18/9/2012 là 4.239.000.000 đồng (tương đương 200.000 USD theo tỷ giá đô la Mỹ ngày

18/6/2014 là 21.195 đồng/01USD).

Người đại diện hợp pháp của BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định không đồng ý thanh toán khoản phí dịch vụ lần 3 theo phụ lục III ký ngày 18/9/2012 vì cho rằng chưa đến nay Ủy ban nhân dân Thành phố HCM chưa có bất kỳ một văn bản nào chấp thuận cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà thu khoản hỗ trợ 2.000.000 đồng/m2 từ BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến phát biểu quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử buộc BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định phải có nghĩa vụ thanh toán khoản phí dịch vụ lần 3 theo phụ lục III ký ngày 18/9/2012 là 4.239.000.000 đồng (tương đương 200.000 USD theo tỷ giá đô la Mỹ ngày

18/6/2014 là 21.195 đồng/01USD).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân QUẬN X phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử:

Thẩm phán đã thụ lý vụ án, xác định quan hệ tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản – hợp đồng dịch vụ là đúng thẩm quyền và còn trong thời hiệu khởi kiện. Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật; việc thu thập chứng cứ được thực hiện đầy đủ; Tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử tiến hành mở phiên tòa đúng thời gian, địa điểm thành phần đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, nguyên tắc xét xử đảm bảo đúng luật.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng:

Nguyên đơn, bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo các quy định của pháp luật.

XÉT THẤY:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

Nguyên đơn là NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến khởi kiện bị đơn là BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ. Bị đơn có trụ sở tại QUẬN X, Thành phố HCM. Căn cứ Khoản 3, Điều 25; Điểm a, Khoản 1, Điều 33 và Điểm a, Khoản 1, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân QUẬN X.

- Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi được Ủy ban nhân dân Thành phố HCM chấp nhận chủ trương đầu tư thì bị đơn có gặp khó khăn trong việc thoả thuận đền bù khoản hỗ trợ cơ sở hạ tầng với Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà nên ngày 18/9/2012 giữa nguyên đơn và bị đơn đã ký Phụ lục III của Hợp đồng thu xếp. Quá trình thực hiện, nguyên đơn đã làm các thủ tục dịch vụ về khoản đền bù hỗ trợ cơ sở hạ tầng và kết quả là được sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM và Sở Tài chính; ngày 13/3/2013 bị đơn và Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà đã đạt được thỏa thuận thu khoản hỗ trợ chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là 2.000.000 đồng/m2 tại khu đô thị An Phú, An Khánh, Quận Z, Thành phố HCM và đến ngày 31/12/2013 BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định đã được Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy Chứng nhận đầu tư số 411043002xxx. Như vậy nguyên đơn đã hoàn tất các điều kiện theo Phụ lục III của Hợp đồng thu xếp, bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng trên; đây là vấn đề cần xem xét.

Xét ý kiến của người đại diện của bị đơn cho rằng đến nay Ủy ban nhân dân Thành phố HCM chưa có bất kỳ một văn bản nào chấp thuận cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà thu khoản hỗ trợ 2.000.000 đồng/m2 từ BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định là không hợp lý, bởi lẽ: Dù Ủy ban nhân dân Thành phố không có văn bản chỉ đạo trực tiếp việc thỏa thuận hỗ trợ chi phí hạ tầng, nhưng gián tiếp chỉ đạo cho Sở Tài chính hướng dẫn các đơn vị có liên quan thực hiện theo quy định. Chính sự chỉ đạo này (thể hiện qua Công văn số 952 ngày 05/02/2013), Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà và BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định đã đạt được thỏa thuận thu khoản hỗ trợ 2.000.000 đồng/m2 tại khu đô thị An Phú, An Khánh, Quận Z (theo Bản Thỏa thuận số 129/2013/PTN ngày 13/3/2013) và như vậy theo Phụ lục III ngày 18/9/2013 thì bị đơn phải có trách nhiệm thanh toán phí dịch vụ 100.000 USD trong vòng 02 ngày sau khi có Bản Thỏa thuận trên, nhưng đến nay, bị đơn chưa thanh toán là vi phạm nghĩa vụ. Số tiền còn lại 100.000 USD sẽ được bị đơn thanh toán cho nguyên đơn trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đầu tư cho phép xây dựng Bệnh viện Quốc tế trên lô đất tại khu đô thị An Phú, An Khánh, Quận Z; mặc dù ngày 31/12/2013 BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định đã được Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy Chứng nhận đầu tư số 411043002xxx nhưng cho đến nay vẫn chưa thanh toán là vi phạm nghĩa vụ.

Theo quy định tại Luật thương mại năm 2005 thì:

Điều 74. Hình thức hợp đồng dịch vụ

1. Hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.

2. Đối với các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó.

Điều 85. Nghĩa vụ của khách hàng

Trừ trường hợp có thoả thuận khác, khách hàng có các nghĩa vụ sau đây:

1. Thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thoả thuận trong hợp đồng;

Điều 87. Thời hạn thanh toán

Trường hợp không có thỏa thuận và giữa các bên không có bất kỳ thói quen nào về việc thanh toán thì thời hạn thanh toán là thời điểm việc cung ứng dịch vụ được hoàn thành.

Căn cứ vào các quy định nêu trên của Luật Thương mại năm 2005, yêu cầu của NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến yêu cầu BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định phải thanh toán tiền dịch vụ là có cơ sở chấp nhận.

Xét việc thỏa thuận thanh toán tiền dịch vụ của hai bên bằng ngoại tệ không phù hợp quy định của pháp luật, nên theo quy định tại Điều 24 Pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực ngày

01/6/2006, Điều 32 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ “Quy

định chi tiết thi hành pháp lệnh ngoại hối và Điều 128, Điều 137 Bộ luật Dân sự thì giao dịch trên bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Do đó buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn tiền dịch vụ

200.000 USD được tính ra tiền đồng Việt Nam tương đương là 4.274.000.000 đồng (theo giá bán ngoại tệ của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thành phố HCM với đôla Mỹ được đăng trên Báo Sài Gòn giải phóng ngày 25/6/2014 là 01 đôla Mỹ = 21.370 đồng Việt Nam).

Qua phân tích trên nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến. Buộc BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định phải thanh toán tiền dịch vụ cho NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến là 4.274.000.000 đồng.

Xét trong quá trình chuẩn bị xét xử, ngày 18/4/2014 bị đơn có đơn phản tố và đã được Toà án thông báo nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm nhưng bị đơn không nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét tại phiên toà ngày 18/6/2014 người đại diện của bị đơn có ý kiến cho rằng bị đơn đã có sự nhầm lẫn khi ký hợp đồng với nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo quy định của pháp luật, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất; và khu đất tại khu đô thị mới An Phú, An Khánh, Quận Z đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà theo Quyết định số 783/QĐ-TTg ngày 13/8/1999 nên ý kiến của bị đơn không có cơ sở xem xét.

Xét tại phiên toà ngày 18/6/2014 người đại diện của bị đơn có yêu cầu triệu tập Ủy ban nhân dân Thành phố HCM và Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà tham gia phiên toà với tư cách là người làm chứng, Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở xem xét vì Ủy ban nhân dân Thành phố HCM và Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà không thể biết gì về thoả thuận dịch vụ cũng như các công việc dịch vụ của nguyên đơn và bị đơn.

Xét tại phiên toà ngày 18/6/2014 người đại diện của bị đơn còn có ý kiến cho rằng ông Nguyễn Hữu Ngọc không có tư cách đại diện cho nguyên đơn để ký hợp đồng dịch vụ với bị đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: căn cứ Quyết định của Chủ tịch Hội đồng quản trị số: 10/Qđ – ANP ngày 29/6/2007 của NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến; Văn bản ủy quyền ngày 10/9/2008 thì ông Nguyễn Hữu Ngọc có đủ tư cách đại diện cho nguyên đơn để ký hợp đồng dịch vụ với bị đơn nên ý kiến của người đại diện của bị đơn không có cơ sở xem xét.

- Về án phí:

BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 112.274.000 đồng.

NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm nên được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

- Về quyền kháng cáo:

NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến và BĐ_Công ty TNHH

phòng khám Công Định theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

Áp dụng:

QUYẾT ĐỊNH:

- Khoản 3, Điều 25; Điểm a, Khoản 1, Điều 33; Điểm a, Khoản 1, Điều 35, Điều 179,

Khoản 5, Điều 236; Điều 243 và Khoản 1, Điều 245 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 74, 85 và 87 Luật Thương mại năm 2005;

- Các Điều 128 và 137 Bộ luật Dân sự năm 2005;

- Điều 24 Pháp lệnh Ngoại hối có hiệu lực ngày 01/6/2006;

- Điều 32 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ về việc

“Quy định chi tiết thi hành pháp lệnh ngoại hối;

- Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 quy định về án phí, lệ phí Toà

án;

- Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực ngày 01/7/2009;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

Buộc BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định phải thanh toán tiền dịch vụ cho

NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến 4.274.000.000 (bốn tỷ hai trăm bảy mươi bốn triệu) đồng.

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến có đơn yêu cầu thi hành án nếu BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định không thanh toán số tiền nêu trên thì hàng tháng BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định còn phải trả cho NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến tiền lãi trên số tiền còn phải thi hành theo theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

 

 

2. Về án phí:

BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 112.274.000 đồng.

Hoàn  trả  lại  cho  NĐ_Công  ty  cổ  phần  kinh  doanh  và  phát  triển  nhà  Nhật Tiến

56.096.000 (năm mươi sáu triệu không trăm chín mươi sáu nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 06657 ngày 09/4/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự QUẬN X.

3. Về quyền kháng cáo:

NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà Nhật Tiến và BĐ_Công ty TNHH phòng khám Công Định có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

 

 

Tên bản án

Bản án số: 237/2014/KDTM-ST Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English