TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X THÀNH PHỐ HCM

Bản án số: 238/2012/KDTM-ST

Ngày: 31/08/2012

V/v: “Tranh chấp về hợp đồng dịch

vụ”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

--------------

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X – THÀNH PHỐ HCM

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Bà Phạm Uyên H - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

2. Ông Ngô Hữu C  - Hội thẩm nhân dân

3. Bà Lê Thị Kim  - Hội thẩm nhân dân

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Phương - Cán bộ Tòa án nhân dân quận 7, thành phố HCM.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, thành phố HCM tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Diễm - Kiểm sát viên.

Ngày 31 tháng 8 năm 2012, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân quận 7 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2010/TLST-KDTM ngày 21/6/2010, về việc: “Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2012/QĐST-KDTM ngày 06 tháng 8 năm 2012 và tuyên án vào ngày 06/9/2012, giữa:

NGUYÊN ĐƠN:

NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong

Địa chỉ : 194 NCT, phường NTB, quận Y, thành phố HCM

Người đại diện theo pháp luật: Bà Đặng Hồng Hạnh- Tổng Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trường Hận, sinh năm:1974 (Văn bản ủy quyền ngày 15/02/2011)

(Ông Hận có mặt tại phiên toà và vắng mặt vào ngày tuyên án).

BỊ ĐƠN:

Bà BĐ_Trần Tố Loan, sinh năm: 1964 (có mặt).

Địa chỉ: 5/6D TN, phường BA, quận Z, thành phố HCM

NGỪỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN: 

LQ_Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hoài Phong Trụ sở: 45 LD, phường BN, quận Y, thành phố HCM Người đại diện theo pháp luật: Ông Tống Duy Tiên

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Ngô Thị Thanh Thảo (vắng mặt) (Giấy ủy quyền ngày 29/12/2011).

NGƯỜI GIÁM ĐỊNH:

Công ty TNHH Kiểm toán Tư vấn Việt Tiến

Trụ sở : 02 HKN, phường ĐK, quận Y, Tp. HCM

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Bích Ngọc, sinh năm: 1964 Là Kiểm toán viên.

(Giấy ủy quyền số 001/2012/UQ-HĐĐH ngày 31/8/2012).

NHẬN THẤY:

Tại đơn khởi kiện ngày 26 tháng 9 năm 2008, nguyên đơn NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong trình bày: Ngày 22/5/2007, NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong và bà BĐ_Trần Tố Loan có ký hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán số 0129/2007 với số tài khoản là 048C000029. Ngày 17/12/2007, bà BĐ_Loan có nộp vào tài khoản giao  dịch  chứng  khoán  tại  NĐ_Công  ty  Cổ  phần  Chứng  khoán  Hoài Phong(thông  qua LQ_Ngân  hàng  Thương  mại  Cổ  phần  Hoài Phong–  phòng  Giao  dịch  NTB)  số  tiền  là 85.000.000 đồng, số chứng từ nộp tại Ngân hàng là 032D/0066. Tuy nhiên, do sơ suất, nhân viên của NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong đã nhập nhầm vào tài khoản của bà BĐ_Loan hai lần số tiền 85.000.000 đồng theo số chứng từ trong tài khoản giao dịch chứng khoán là BOSC/777365/2007 và BOSC/777370/2007. Do đó, NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong yêu cầu bà BĐ_Loan phải có nghĩa vụ trả lại số tiền mà ngày 17/12/2007 NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong đã nhập nhầm vào tài khoản của bà BĐ_Loan là 85.000.000 đồng.

Tại các bản tự khai, tại các biên bản hoà giải và tại phiên toà, ông Trường Hận là đại diện theo ủy quyền của NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong trình bày: Ngày 17/12/2007, bà BĐ_Loan chỉ có nộp vào tài khoản giao dịch chứng khoán tại NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong một lần số tiền là 85.000.000 đồng, số chứng từ nộp tại Ngân hàng là 032D/0066. Tuy nhiên, do sơ suất, nên nhân viên của NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong đã nhập nhầm vào tài khoản của bà BĐ_Loan hai lần số tiền 85.000.000 đồng theo số chứng từ trong tài khoản giao dịch chứng khoán là BOSC/777365/2007 và BOSC/777370/2007. Do chứng từ nhiều, Công ty không kiểm sốt hết được, nên 07 tháng sau Công ty mới phát hiện việc nhập nhầm tiền và nhiều lần làm việc với bà BĐ_Loan nhưng cả hai bên không thống nhất về việc nhập nhầm tiền. NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong yêu cầu bà BĐ_Loan phải có nghĩa vụ trả lại số tiền đã nhập nhầm vào tài khoản là 85.000.000 đồng. Ông đồng ý với thư giải trình của Công ty TNHH Kiểm toán Tư vấn Việt Tiến, không yêu cầu kiểm toán lại.

Tại các bản tự khai, tại các biên bản hoà giải và tại phiên toà, bị đơn bà BĐ_Trần Tố Loan trình bày: Vào năm 2007, bà có mở tài khoản số 048C000029 để giao dịch chứng khoán tại NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong. Việc mua bán chứng khoán phải thông qua phòng môi giới chứng khoán của Công ty và phải có tiền thì mới thực hiện được giao dịch. Moãi cá nhân khi mua bán chứng khoán hay ứng tiền, rút tiền đều được Công ty theo doõi trên sổ chi tiết của Công ty. Việc NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong cho rằng có nhập nhầm vào tài khoản của bà số tiền là 85.000.000 đồng là không đúng, vì vào thời điểm mà Công ty cho rằng nhầm lẫn, thì bà vẫn giao dịch tại Công ty, đến khoảng đầu năm 2008, bà không còn giao dịch nữa, sau đó Công ty mới thông báo cho bà có nhầm lẫn. Bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong về việc đòi số tiền 85.000.000 đồng, vì Công ty cho là có nhập nhầm vào tài khoản của bà số tiền trên. Nếu có nhập nhầm thì Công ty phải phát hiện ngay, nhưng trong khoảng thời gian rất lâu sau đó mới phát hiện là không hợp lý.

 

 

Tại các bản tự khai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là LQ_Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hoài Phong ủy quyền cho bà Ngô Thị Thanh Thảo trình bày: Ngày 17/12/2007, bà BĐ_Trần Tố Loan có đến LQ_Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hoài Phong - phòng Giao dịch NTB để nộp số tiền 85.000.000 đồng vào tài khoản số 048C000029 của NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong, với số chứng từ là 032D/0066. Bà xác định vào ngày 17/12/2007,  bà  BĐ_Loan  chỉ  nộp  một  lần  số  tiền  85.000.000  đồng  vào  tài  khoản  số 048C000029. Bà yêu cầu được vắng mặt khi hòa giải và xét xử.

Tại thư giải trình ngày 24/11/2009, Công ty TNHH Kiểm toán Tư vấn Việt Tiến trình bày: Căn cứ các tài liệu hồ sơ về việc liên quan đến NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong và bà BĐ_Trần Tố Loan, ngày 17/12/2007 bà BĐ_Loan có nộp vào tài khoản chứng khoán mang tên BĐ_Trần Tố Loan tại NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong thông qua LQ_Ngân hàng Hoài Phong – Phòng giao dịch NTB với số tiền là 85.000.000 đồng theo chứng từ số 032D/0066 ngày 17/12/2007, ngoài ra không còn chứng từ nào liên quan đến nội dung trên. Cuøng ngày, NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong đã hạch toán trên sổ chi tiết tài khoản 1141 - tiền gửi của nhà đầu tư - hai số phiếu thu là 059/12/07 và 061/12/07 được căn cứ trên cuøng một chứng từ số 032D/0066 với số tiền là 85.000.000 đồng.

Tại phiên toà, bà Lê Thị Bích Ngọc là đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH Kiểm toán Tư vấn Việt Tiến trình bày: Thư giải trình số 93/2009/CV ngày 24/11/2009 của Công ty TNHH Kiểm toán Tư vấn Việt Tiến được phát hành căn cứ vào các chứng từ do NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong cung cấp. Thư giải trình này chỉ có giá trị tham khảo, mà chưa đủ cơ sở để kết luận, vì phía NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong cung cấp các chứng từ chưa đầy đủ nên Công ty TNHH Kiểm toán Tư vấn Việt Tiến không đưa ra bản kết luận, mà chỉ có thư giải trình như trên.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 7 có ý kiến về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm. Các đương sự đã thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 58, 59, 60, 74 và 209 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

XÉT THẤY:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ

vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Nguyên đơn, NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong khởi kiện yêu cầu bị đơn là BĐ_Trần Tố Loan phải trả lại số tiền là 85.000.000 mà nguyên đơn cho rằng đã nhập nhầm vào tài khoản của bị đơn. Tranh chấp phát sinh trong việc thực hiện hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán. Nguyên đơn có tư cách pháp nhân và cả hai bên nguyên đơn, bị đơn đều nhằm mục đích lợi nhuận, nên đây là tranh chấp về hợp đồng dịch vụ trong vụ án kinh doanh thương mại, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 29 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011.

Ngay khi thụ lý vụ án, bị đơn cư trú tại địa bàn quận 7, nên theo quy định tại Điểm a, Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân quận 7 có thẩm quyền giải quyết. Sau đó bị đơn thay đổi nôi cư trú đến địa bàn quận Z và các bên đương sự đều chọn Toà án nhân dân quận 7 giải quyết vụ án, nên không thay đổi thẩm quyền giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, LQ_Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hoài Phong có đơn yêu cầu hòa giải và xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 202 Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2004, sửa đổi bổ sung năm 2011.

2. Về các yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

Ngày 22/5/2007, NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong và bà BĐ_Trần Tố Loan có ký hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán số 0129/2007/ORG/HĐ-TKCN với số tài khoản giao dịch là 048C000029.

Nguyên  đơn,  NĐ_Công  ty Cổ  phần  Chứng khoán  Hoài Phong cho  rằng  vào  ngày

17/12/2007, bà BĐ_Loan có nộp vào tài khoản giao dịch chứng khoán tại NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong (thông qua LQ_Ngân hàng Hoài Phong - phòng Giao dịch NTB) số tiền là 85.000.000 đồng, số chứng từ nộp tại Ngân hàng là 032D/0066. Nhưng do sơ suất, nhân viên của NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong đã nhập nhầm vào tài khoản của bà BĐ_Loan hai lần số tiền 85.000.000 đồng theo hai phiếu thu số 059/12/07 và 061/12/07 ngày

17/12/2007, với số chứng từ trong tài khoản giao dịch chứng khoán là BOSC/777365/2007 và BOSC/777370/2007, nên yêu cầu bà BĐ_Loan phải có nghĩa vụ trả lại số tiền mà NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong đã nhập nhầm vào tài khoản của bà BĐ_Loan là 85.000.000 đồng. Tại phiên tòa, đại diện phía nguyên đơn cho rằng do nhân viên không chuyên nghiệp và do số lượng giao dịch chứng từ nhiều, nên NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong không kiểm sốt và phát hiện việc nhầm lẫn ngay, mà đến tháng 7/2008 Công ty mới phát hiện và có thông báo cho bà BĐ_Loan theo biên bản làm việc ngày 11/7/2008.

Bị đơn, bà BĐ_Trần Tố Loan không đồng ý với ý kiến và yêu cầu của NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong về việc cho là có nhập nhầm vào tài khoản của bà số tiền là 85.000.000 đồng. Nếu có nhập nhầm thì Công ty phải phát hiện ngay, nhưng trong khoảng thời gian rất lâu sau đó mới phát hiện là không hợp lý.

Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyên đơn, NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong là Công ty hoạt động kinh doanh trong lónh vực đầu tư tài chính, chứng khoán, mà theo quy định tại khoản 8.2 Điều 8 của Điều lệ Tổ chức và hoạt động của NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong, cũng như quy định tại Khoản 11 Điều 71 Luật Chứng khoán năm 2006 về nghĩa vụ của Công ty chứng khoán, thì NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong phải có nghĩa vụ: “thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê, nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật”. Do đó, nguyên đơn cho rằng do nhân viên không chuyên nghiệp và do số lượng giao dịch chứng từ nhiều, nên Công ty không kiểm sốt và phát hiện việc nhầm lẫn ngay được, mà từ ngày 17/12/2007 đến tháng 7/2008 Công ty mới phát hiện việc nhầm lẫn là không có cơ sở vì nghĩa vụ của Công ty là phải thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo tài chính định kỳ, cũng như tự kiểm tra, giám sát công tác kế toán, kiểm toán định kỳ theo quy định tại Điều 43 của Quy chế tổ chức và hoạt động của Công ty Chứng khoán do Sở giao dịch chứng khoán thành phố HCM ban hành, nếu có nhầm lẫn thì phải được phát hiện ngay.

Mặt khác, tại phiên toà, theo đại diện Công ty TNHH Kiểm toán Tư vấn Việt Tiến trình bày, thư giải trình số 93/2009/CV ngày 24/11/2009 của Công ty TNHH Kiểm toán Tư vấn Việt Tiến chỉ có giá trị tham khảo, vì NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong chưa cung cấp đầy đủ các chứng từ có liên quan, nên Công ty TNHH Kiểm toán Tư vấn Việt Tiến không có có sở để đưa ra kết luận. Ngoài ra, NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong cũng không chứng minh được là chỉ từ một phiếu thu tiền số 032D/0066 của LQ_Ngân hàng Hoài Phong mà được nhập làm hai lần vào tài khoản của bà BĐ_Trần Tố Loan tại NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong theo hai số chứng từ trong tài khoản giao dịch chứng khoán là BOSC/777365/2007 và BOSC/777370/2007, được thể hiện trong Sổ chi tiết tài khoản tiền tổng hợp của bà BĐ_Trần Tố Loan từ ngày 01/5/2007 đến ngày 20/10/2008, vì nếu Công ty có nhập nhầm vào tài khoản của bà BĐ_Loan hai lần số tiền 85.000.000 đồng từ một giấy nộp tiền mặt số 032D/0066 ngày 17/12/2007, thì không thể lập thành hai phiếu thu cách nhau hai số (059/12/07 và 061/12/07 ngày 17/12/2007) cũng như số chứng từ không thể cách nhau năm số (BOSC/777365/2007 và BOSC/777370/2007).

Ngoài ra, theo quy định, người mua chứng khoán bắt buộc phải có tiền trong tài khoản thì mới thực hiện được việc giao dịch. Nếu nguyên đơn cho rằng, vào ngày 17/12/2007 bà BĐ_Trần Tố Loan chỉ nộp 85.000.000 đồng vào tài khoản, thì bà BĐ_Loan không thể thực hiện được các giao dịch mua bán chứng khoán bằng tài khoản không có thật được.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của nguyên đơn cho rằng sơ suất của nhân viên đã nhập nhầm vào tài khoản của bà BĐ_Loan số tiền là 85.000.000 đồng vào ngày 17/12/2007 và yêu cầu bà BĐ_Trần Tố Loan phải trả lại số tiền 85.000.000 đồng là không có cơ sở để chấp nhận.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu của mình không được chấp nhận là: 85.000.000 đồng x 5% = 4.250.000 đồng và phải chịu chi phí giám định là

5.000.000 đồng.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 29; Điểm b Khoản 1 Điều 33; Điểm a Khoản 1 Điều 35;

Điều 131 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011;

Căn cứ Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1.   Về hình thức: Xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là LQ_Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hoài Phong.

2.   Về nội dung:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong về việc đòi bà BĐ_Trần Tố Loan số tiền là 85.000.000 (tám mươi lăm triệu) đồng.

Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong phải chịu là 4.250.000 (boán triệu hai trăm năm mươi ngàn) đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí là 2.125.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 009174 ngày 12/11/2008, NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong còn phải nộp thêm số tiền là 2.125.000 (hai triệu một trăm hai mươi lăm ngàn) đồng.

Chi phí giám định là 5.000.000 (năm triệu) đồng, NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong phải chịu, NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong đã nộp đủ.

Bà BĐ_Trần Tố Loan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. NĐ_Công ty Cổ phần Chứng khoán Hoài Phong và LQ_Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hoài Phong có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp nghĩa vụ trả tiền trên được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sư.

 

 

 

Tên bản án

Bản án số: 238/2012/KDTM-ST Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English