TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐN

Bản án số: 253/2014/KDTM-PT

Ngày: 07/03/2014

V/v: “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

bảo vệ”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

----------------

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐN

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM: 

1. Ông Lê Văn H - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:

2. Ông Nguyễn Tiến K - Hội thẩm nhân dân

3. Ông Phạm Công L - Hội thẩm nhân dân

Bà Nguyễn Thị Hồng - Cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh ĐN - Thư ký phiên toà

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh ĐN tham gia phiên tòa: Bà Phạm Thị P – Kiểm sát viên.

Ngày 07 tháng 3 năm 2014, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh ĐN xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 29/2013/TLPT-KDTM ngày 04 tháng 11 năm 2013 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ bảo vệ”. Do Bản án sơ thẩm số 37/2013/KDTM-ST ngày 12/9/2013 của Tòa án nhân dân thành phố BH bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 02/2014/QĐ-PT ngày 14/02/2014, giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ Vạn Long.

Địa chỉ: Số 102/4 đường NAQ, khu phố 5, phường TD, thành phố BH, tỉnh ĐN.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đặng Công Oanh - Chức vụ: Kế toán trưởng (theo Văn bản ủy quyền ngày 18/11/2013).

BỊ ĐƠN:

BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn A song (Việt Nam)

Địa chỉ: số 104/2-2 khu công nghiệp AM, phường LB, thành phố BH, tỉnh ĐN.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Nguyễn Thanh Thủy (theo Văn bản ủy quyền ngày 22/6/2013 và Văn bản ủy quyền ngày 10/9/2013).

Người kháng cáo:

NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ Vạn Long.

NHẬN THẤY:

Theo án sơ thẩm, nguyên đơn trình bày:

Ngày 25/9/2011, NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ Vạn Long (sau đây gọi tắt là NĐ_Công ty Vạn Long) và BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn A songViệt Nam (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty A Song) ký kết hợp đồng dịch vụ. Theo đó, NĐ_Công ty Vạn Long cung cấp chín nhân viên bảo vệ cho BĐ_Công ty A Song, phí dịch vụ là 28.800.000đ/tháng.

NĐ_Công ty Vạn Long đã thực hiện đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, BĐ_Công ty A songcó sự vi phạm trong việc thanh toán.

Ngày 10/10/2012, NĐ_Công ty Vạn Long và BĐ_Công ty A songthống nhất chấm dứt và thanh lý hợp đồng. Theo bản thanh lý hợp đồng thì BĐ_Công ty A songphải thanh toán cho NĐ_Công ty Vạn Long tổng số tiền 137.371.940đ, thời hạn 03 ngày kể từ ngày ký.

Ngày 16/10/2012, BĐ_Công ty A songthanh toán cho NĐ_Công ty Vạn Long số tiền 72.150.000đ. Ngày 29/10/2012, thanh toán số tiền 5.000.000đ. Tổng cộng, BĐ_Công ty A songthanh toán 77.150.000đ, còn lại 60.221.940đ.

Nay NĐ_Công ty Vạn Long khởi kiện, yêu cầu BĐ_Công ty A songthanh toán 60.221.940đ và tiền lãi phát sinh từ ngày 16/10/2012 đến ngày xét xử sơ thẩm 12/9/2013, số tiền 11.683.357đ. Tổng cộng: 71.905.297đ.

Bị đơn - BĐ_Công ty A Song, trình bày:

Ngày 25/9/2011, NĐ_Công ty Vạn Long và BĐ_Công ty A songký hợp đồng dịch vụ bảo vụ như nguyên đơn trình bày.

Ngày 10/10/2012, hai bên ký bản thanh lý hợp đồng. Theo đó BĐ_Công ty A songphải thanh toán cho NĐ_Công ty Vạn Long số tiền 137.371.940đ. Do việc ký bản thanh lý hợp đồng thực hiện vào ban đêm nên BĐ_Công ty A songchưa tính toán rõ số tiền. Sau khi ký, BĐ_Công ty A songcó gửi công văn cho NĐ_Công ty Vạn Long điều chỉnh bản thanh lý hợp đồng nhưng NĐ_Công ty Vạn Long không trả lời.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng dịch vụ, NĐ_Công ty Vạn Long để xảy ra việc mất xe công nhân của BĐ_Công ty A Song. Ngày 29/7/2010, NĐ_Công ty Vạn Long và BĐ_Công ty A songký biên bản mỗi bên chịu một nửa giá trị xe bị mất để trả cho công nhân (10.000.000đ). BĐ_Công ty A songđã trừ vào phí dịch vụ.

Theo hợp đồng, ngày bắt đầu tính lãi là sau 07 ngày kể từ ngày xuất hóa đơn (ngày 23 hàng tháng), nhưng NĐ_Công ty Vạn Long sau khi xuất hóa đơn đã tính lãi suất.

Ngày 02/3/2011, NĐ_Công ty Vạn Long có gửi công văn xin điều chỉnh phí dịch vụ tăng 10% nhưng chưa được BĐ_Công ty A songđồng ý. Tháng 6/2011, NĐ_Công ty Vạn Long tự tăng phí dịch vụ. Đến ngày 14 tháng 11 năm 2011, NĐ_Công ty Vạn Long và BĐ_Công ty A songđồng ý thỏa thuận với nhau là tăng 20% phí dịch vụ so với hợp đồng cũ. Cụ thể là tăng phí dịch vụ bảo vệ là 28.800.000đ tính từ tháng 9 năm 2011.

Tại phiên tòa, BĐ_Công ty A songđồng ý thanh toán cho NĐ_Công ty Vạn Long số tiền phí dịch vụ bảo vệ còn lại là 10.080.000đ. Đối với khoản tiền lãi suất, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại Bản án sơ thẩm số 37/2013/KDTM-ST ngày 12/9/2013, Tòa án nhân dân thành phố BH áp dụng các Điều 300, 301 và 306 của Luật Thương mại; Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của NĐ_Công ty Vạn Long. Buộc BĐ_Công ty A songthanh toán cho NĐ_Công ty Vạn Long số tiền 65.130.028đ.

Ngoài ra, Tòa án còn tuyên về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, về án phí và về quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 27/9/2013, NĐ_Công ty Vạn Long có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại mức lãi suất áp dụng và án phí sơ thẩm mà BĐ_Công ty phải chịu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh ĐN phát biểu ý kiến:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng, từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của pháp luật. Các đương sự tham gia phiên tòa đảm bảo đúng thủ tục, quyền, nghĩa vụ theo quy định.

Về đường lối giải quyết vụ án: Theo quy định tại Điều 306 của Luật Thương mại, bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán. Cấp sơ thẩm áp dụng lãi suất cơ bản là chưa phù hợp. Đối với kháng cáo về án phí, cấp sơ thẩm buộc NĐ_Công ty Vạn Long chịu 2.000.000đ án phí sơ thẩm là phù hợp với quy định tại Điều 27 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án.

XÉT THẤY:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

Đối với kháng cáo của NĐ_Công ty Vạn Long về lãi suất và tiền lãi Theo quy định tại Điều 306 của Luật Thương mại, trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả. Trong vụ án này, NĐ_Công ty Vạn Long yêu cầu BĐ_Công ty A songtrả số tiền chậm thanh toán 60.221.940đ cùng tiền lãi phát sinh, theo mức lãi quá hạn đến ngày xét xử sơ thẩm. Quyết định của án sơ thẩm viện dẫn Điều 306 Luật Thương mại nhưng lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố để tính tiền lãi mà BĐ_Công ty A songphải chịu là không chính xác, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Vì vậy, cần chấp nhận kháng cáo của NĐ_Công ty Vạn Long, sửa án sơ thẩm, tính lại tiền lãi BĐ_Công ty A songphải trả cho NĐ_Công ty Vạn Long là 7.362.132đ (60.221.940đ x 10 tháng 26 ngày x 0,75% x 150%). Như vậy, BĐ_Công ty A songphải thanh toán cho NĐ_Công ty Vạn Long tổng số tiền  67.584.072đ.  Trong  đó,  tiền  nợ  gốc:  60.221.940đ,  tiền  lãi  do  chậm  thanh  toán: 7.362.132đ.

Đối với kháng cáo của NĐ_Công ty Vạn Long về án phí Theo quy định tại Điều 27 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án thì đương sự phải chịu án phí sơ thẩm đối với yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Mức án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá trị tranh chấp từ 40.000.000đ trở xuống là 2.000.000đ. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm buộc NĐ_Công ty Vạn Long chịu 2.000.000đ án phí sơ thẩm đối với phần yêu cầu không được chấp nhận là đúng pháp luật. Kháng cáo của NĐ_Công ty Vạn Long về vấn đề này không có cơ sở chấp nhận.

Về án phí, BĐ_Công ty A songphải chịu án phí sơ thẩm số tiền 3.379.000đ (làm tròn số).

Do kháng cáo được chấp nhận một phần, NĐ_Công ty Vạn Long không phải chịu án phí phúc thẩm, được trả lại tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên:

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 275 và Điều 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH:

Chấp nhận một phần kháng cáo của NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ Vạn Long. Sửa Bản án sơ thẩm số 37/2013/KDTM-ST ngày 12/9/2013 của Tòa án nhân dân thành phố BH.

Áp dụng các Điều 300, 301 và 306 của Luật Thương mại; Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ Vạn Long.

Buộc BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn A song(Việt Nam) thanh toán cho NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ Vạn Long số tiền 67.584.072đ (sáu mươi bảy  triệu  năm  trăm  tám  bốn  ngàn  không  trăm  bảy  hai  đồng).  Trong  đó,  tiền  nợ  gốc: 60.221.940đ, tiền lãi do chậm thanh toán: 7.362.132đ.

Về án phí: BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn A song(Việt Nam) phải chịu 3.379.000đ án phí sơ thẩm.

NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ Vạn Long phải chịu 2.000.000đ án phí sơ thẩm, không phải chịu án phí phúc thẩm. Trừ vào 2.000.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 09801 ngày 30/5/2013 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố BH. NĐ_Công ty đã nộp đủ án phí sơ thẩm. Hoàn trả NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ  Bảo vệ Vạn Long 200.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số 000642 ngày 30/9/2013 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố BH.

Kể từ ngày NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ Vạn Long có đơn yêu cầu thi hành án, nếu BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn A song(Việt Nam) không thanh toán số tiền trên thì phải chịu tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

 

Tên bản án

Bản án số: 253/2014/KDTM-PT Tranh chấp hợp đồng dịch vụ bảo vệ

Số hiệu 253/2014/KDTM-PT Ngày xét xử 07/03/2014
Bình luận án

Tiếng Việt

English