TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X THÀNH PHỐ HCM

Bản án số: 259/2014/KDTM- ST

Ngày: 10/09/2014

V/v: “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

-------------------


NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X, THÀNH PHỐ HCM

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  
1. Bà Nguyễn Thị Tình - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:    

2. Bà Phạm Thị H - Hội thẩm nhân dân

3. Bà Đặng Thị Ngọc - Hội thẩm nhân dân

Bà Đỗ Thị Hồng – Cán bộ Tòa án nhân dân Quận X, Tp. HCM - Thư ký phiên toà

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận X, Tp. HCM tham gia phiên tòa: Bà Đỗ Thị Thu – Kiểm sát viên.

Ngày 10 tháng 9 năm 2014, tại phòng xử án Tòa án nhân dân Quận X, Tp. HCM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 119/TLST-KDTM ngày 01/10/2013 về “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2014/QĐST-KDTM ngày 04 tháng 8 năm 2014 và Quyết định hoãn phiên toà số 89/2014/QĐST-HPT ngày 21 tháng 8 năm 2014, giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

NĐ_Công ty TNHH Hà Anh.

Địa chỉ: Đội 1, thôn 5, xã TN, huyện BĐ, tỉnh BP.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Đặng Thị Mai là đại diện theo văn bản ủy quyền số 01/2013/GUQ ngày 29/7/2013. (có mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn: Bà Lê Châu Ngọc – Luật sư đoàn luật sư Thành phố HCM (có mặt)

BỊ ĐƠN: 

BĐ_Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Thương mại Minh Châu

Địa chỉ: 234 NĐC, Phường Y, Quận X, Tp.HCM.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Minh Nguyện là đại diện theo văn bản uỷ quyền ngày 15/7/2014

(vắng mặt)

NGỪỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN: 

Ông LQ_Lê Hoàng – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Vạn Trường

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đặng Thị Mai là đại diện theo văn bản ủy quyền số 01/2013/GUQ ngày 09/10/2013. (có mặt)

NHẬN THẤY

Tại đơn khởi kiện, các bản tự khai và các chứng từ kèm theo nguyên đơn NĐ_Công ty TNHH Hà Anh có bà Đặng Thị Mai đại diện trình bày:

Vào khoảng giữa năm 2011, được biết NĐ_Công ty TNHH Hà Anh (sau đây gọi tắt là nguyên đơn) muốn xin giấy phép khai thác cát tại nửa lòng sông ĐN (thuộc địa phận xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN). Ông Trần Văn Nghĩa (là Tổng giám đốc đại diện cho BĐ_Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Thương mại Minh Châu (sau đây gọi tắt là bị đơn) đã đồng ý nhận gói dịch vụ tư vấn và thực hiện thủ tục pháp lý để nguyên đơn nhận được giấy phép khai thác cát do Sở Tài nguyên môi trường tỉnh ĐN cấp.

Vào ngày 15/02/2012, nguyên đơn đã tự chuẩn bị và nộp hồ sơ “Xin cấp giấy phép khai thác cát xây dựng trên sông ĐN (thuộc địa phận xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN) tại Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh ĐN.

Ngày 09/5/2012, nguyên đơn và bị đơn đã ký hợp đồng tư vấn số 002/HĐDVTV để hợp thức hóa, chính thức thực hiện công việc mà hai bên đã hợp tác nêu trên. Theo hợp đồng, bị đơn sẽ tư vấn, lập kế hoạch, hướng dẫn, cử người trợ giúp cho nguyên đơn xin phép Sở Tài nguyên môi trường tỉnh ĐN để nguyên đơn được cấp giấy phép khai thác cát tại nửa lòng sông ĐN (thuộc địa phận xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN). Giá trị hợp đồng là 1.000.000.000 đồng, nguyên đơn đã tạm ứng cho bị đơn 500.000.000 đồng thông qua DNTN Vạn Trường (đơn vị trực tiếp chuyển khoản cho bị đơn).

Tuy nhiên vào ngày 01/6/2012 nguyên đơn có nhận được công văn số 1484/STNMT-KS ngày 25/5/2012 của Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh ĐN với nội dung: “ Khu vực thăm dò, khai thác cát xây dựng trên sông ĐN đoạn thuộc xã ĐL, huyện TP đã được UBND tỉnh giới thiệu cho một doanh nghiệp của tỉnh thực hiện dự án thăm dò, khai thác cát và đơn vị này đã được UBND tỉnh cấp giấy phép thăm dò theo Quyết định số 1582/QĐ-UBND ngày 27/6/2011 và phê duyệt trữ lượng theo quyết định số 908/QĐ-UBND ngày 29/3/2012, hiện này đơn vị này đang hoàn thiện hồ sơ để được xem xét cấp phép khai thác. Do đó, hồ sơ xin thăm dò, khai thác cát xây dựng của NĐ_Công ty TNHH Hà Anh, Sở Tài nguyên và Môi trường không thể xem xét, giải quyết”.

Nguyên đơn đã thông báo cho bị đơn về nội dung công văn trên, nhưng bị đơn vẫn bảo đảm việc xin cấp phép sẽ có kết quả như thỏa thuận. Tuy nhiên, phía bị đơn không có động thái nào cho thấy đã triển khai thực hiện các công việc đúng như thỏa thuận trong hợp đồng.

Vì vậy, vào ngày 16/5/2013 nguyên đơn đã gửi công văn yêu cầu bị đơn thanh lý hợp đồng số 002/HĐDVTV và hoàn trả cho nguyên đơn số tiền 500.000.000 đồng do phía bị đơn đã vi phạm nghiêm trọng các nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng, cụ thể như sau:

Thứ nhất: Căn cứ theo Điều 1 của hợp đồng quy định: “Theo yêu cầu của bên A, bên B đồng ý tư vấn, lập kế hoạch, hướng dẫn, cử người trợ giúp cho bên A trong việc: Xin cấp giấy phép khai thác cát tại nửa lòng sông ĐN (thuộc địa phận xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN): chiều dài đoạn khai thác từ 12 đến 23 km từ điểm giáp giới tỉnh BP về phía hạ lưu”. Tức là: Bị đơn phải có nghĩa vụ tư vấn, lập kế hoạch, hướng dẫn nguyên đơn trong việc điều chỉnh bộ hồ sơ xin cấp giấy phép thăm dò và soạn thảo bộ hồ sơ xin cấp giấy phép khai thác; cử người đi cùng với nguyên đơn nộp hồ sơ tại Sở Tài nguyên môi trường tỉnh ĐN và theo dõi quá trình Sở giải quyết hồ sơ để đạt được mục đích cuối cùng của nguyên đơn là được cấp giấy phép thăm dò, sau đó là được cấp giấy phép khai thác cát tại địa điểm trên. Mặc dù khi nguyên đơn nhận công văn trả lời của Sở tài nguyên và môi trường tỉnh ĐN về việc đã cấp phép thăm dò cho một đơn vị khác nhưng bị đơn vẫn khẳng định việc đang tiến hành xin cấp phép khai thác cát và sẽ có kết quả như đã cam kết.

Thứ 2: Tại Điều 2 hợp đồng quy định: “Thời hạn hợp đồng này kể từ khi ký kết đến khi bên A (nguyên đơn) được cấp giấy phép”. Theo nội dung hai bên thỏa thuận, thời hạn hợp đồng tối thiểu là 06 tháng, trong mọi trường hợp có thể kéo dài thêm nhưng không quá 09 tháng. Điều này được thể hiện rõ theo nội dung tại Điều 3 của hợp đồng. Cụ thể là, tại khoản 3.5 quy định: “Nếu bên A (nguyên đơn) được cấp giấy phép khai thác trong vòng 06 tháng kể từ ngày ký hợp đồng thì bên A sẽ thưởng cho bên B (bị đơn) 30%, nếu chậm thì bên B sẽ bị phạt theo thỏa thuận”. Hai bên đã thỏa thuận bằng lời nói là nếu bên B chậm trễ sẽ bị phạt 30% giá trị hợp đồng”. Tuy nhiên, do đây là hợp đồng theo mẫu do bên B phát hành, họ đã cố tình lấp liếm nên trên mẫu không ghi rõ thời hạn theo quy định pháp luật dân sự, không ghi rõ thỏa thuận về mức phạt và thời hạn chậm trễ trên hợp đồng. Từ đó, bị đơn đã lợi dụng vào sự thiếu chặt chẽ tại Điều 2 của hợp đồng để kéo dài thời gian không hạn định, nhằm chiếm dụng số tiền 500.000.000 (năm trăm triệu đồng) mà nguyên đơn đã ứng trước.

Thứ 3: Tại Điều 4 hợp đồng quy định: “Bên B (bị đơn) có nghĩa vụ giải thích cho bên A (nguyên đơn) về kế hoạch và thực thi công việc khi bên A có yêu cầu (nghĩa vụ của bên B giới hạn trong yêu cầu của bên A trong quá trình thực hiện hợp đồng);…Tư vấn, hướng dẫn cho bên A giao dịch với các cơ quan chức năng để đảm bảo hoàn tất các công việc với thời gian sớm nhất”. Nghĩa là bên A có yêu cầu thì Bên B có trách nhiệm giải thích, tư vấn, hướng dẫn cho bên A nhằm thực hiện công việc nêu tại Điều 1 của hợp đồng. Tuy nhiên, nguyên đơn đã rất nhiều lần nhắc nhở, yêu cầu bị đơn xúc tiến công việc nhưng bị đơn hoàn toàn không có động thái gì sau khi đã nhận 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng của nguyên đơn.

Nội dung về các điều khoản của hợp đồng được hiểu như trên và đúng với nội dung hai bên đã thỏa thuận với nhau. Công việc, nội dung và nghĩa vụ của bị đơn trong việc làm dịch vụ để nguyên đơn được cấp giấy phép thăm dò và giấy phép khai thác cát là những nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng. Nhưng thực tế bị đơn không hề tiến hành bất kì một công việc hay nghĩa vụ nào như thỏa thuận trong hợp đồng. Cụ thể là không lập kế hoạch, không soạn thảo hồ sơ, không hướng dẫn, không cử người đi nộp hồ sơ và theo dõi giải quyết hồ sơ xin phép khai thác cát (theo công văn số 445/STNMT-KS ngày 18/02/2014 của Sở TNMT tỉnh ĐN). Nghĩa là bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng.

Vì vậy, căn cứ Điều 312 Luật thương mại qui định về huỷ bỏ hợp đồng, Điều 425 Bộ luật dân sự , nguyên đơn có yêu cầu như sau:

1. Hủy bỏ hợp đồng tư vấn số 002/HĐDVTV ký ngày 09/5/2012 giữa nguyên đơn và bị  đơn.

2. Buộc bị đơn hoàn trả cho nguyên đơn số tiền 500.000.000 đồng mà nguyên đơn đã  thanh toán cho bị đơn.Thực hiện ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải trả lãi.

Tại biên bản về việc không tiến hành hoà giải được ngày 16/7/2014 bị đơn BĐ_Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Thương mại Minh Châu (sau đây gọi tắt là bị đơn) có ông Nguyễn Minh Nguyện đại diện trình bày:

Ngày 09/5/2012, NĐ_Công ty TNHH Hà Anh (sau đây gọi tắt là nguyên đơn) và bị đơn đã ký hợp đồng tư vấn số 002/HĐDVTV về việc bị đơn sẽ tư vấn, lập kế hoạch, hướng dẫn, cử người trợ giúp cho nguyên đơn trong việc “Xin cấp giấy phép khai thác cát xây dựng trên sông ĐN (thuộc địa phận xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN) tại Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh ĐN.

Ngay sau khi ký hợp đồng thì nguyên đơn đã chuyển cho bị đơn số tiền là 500.000.000 đồng . Đối  với  yêu  cầu  khởi  kiện  của  nguyên  đơn  thì  bị  đơn  không  đồng  ý  vì  số  tiền 500.000.000 đồng là chi phí các khoản tài chính để chi tiêu trong quá trình thực hiện hợp đồng trên mà bị đơn được hưởng.

Về cụ thể đó là những chi phí gì thì bị đơn không rõ và hiện nay bị đơn vẫn đang tiếp tục nộp hồ sơ xin cấp giấy phép cho nguyên đơn.

Về việc Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh ĐN đã cấp giấy phép cho Công ty nào hay chưa thì bị đơn không rõ.

Tại bản tự khai và các chứng từ kèm theo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông là Ông LQ_Lê Hoàng – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Vạn Trường có bà Đặng Thị Mai đại diện trình bày:

Ngày 09/5/2012, NĐ_Công ty TNHH Hà Anh (sau đây gọi tắt là nguyên đơn) và BĐ_Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Thương mại Minh Châu (sau đây gọi tắt là bị đơn) đã ký hợp đồng tư vấn số 002/HĐDVTV về việc bị đơn sẽ tư vấn, lập kế hoạch, hướng dẫn, cử người trợ giúp cho nguyên dơn trong việc “Xin cấp giấy phép khai thác cát xây dựng trên sông ĐN (thuộc địa phận xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN) tại Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh ĐN. Giá trị hợp đồng là 1.000.000.000 đồng, nguyên đơn đã tạm ứng cho bị đơn 500.000.000 đồng ngay sau khi ký hợp đồng. Bị đơn yêu cầu nguyên đơn chuyển tiền để thực hiện hợp đồng và hứa sẽ trả lại toàn bộ số tiền nếu nguyên đơn không được cấp giấy phép khai thác cát. Trong thời gian đó, do tài khoản của nguyên đơn không có tiền nên đã nhờ DNTN Vạn Trường chuyển khoản trước cho bị đơn. Ông LQ_Lê Hoàng - Chủ DNTN Vạn Trường cũng là Chủ tịch Hội đồng quản trị của nguyên đơn. Vì vậy, ngày 24/05/2012 và ngày 30/05/2012 ông LQ_Hoàng đã chuyển khoản cho bị đơn tổng cộng là 500.000.000 đồng, sau đó nguyên đơn đã hoàn lại số tiền trên cho ông LQ_Hoàng – Chủ DNTN Vạn Trường.

Ông LQ_Hoàng - Chủ DNTN Vạn Trường cam kết rằng số tiền 500.000.000 đồng mà DNTN Vạn Trường chuyển cho bị đơn thực chất là của nguyên đơn thanh toán cho hợp đồng tư vấn số 002/HĐDVTV ký ngày 09/05/2012. Nay ông LQ_Hoàng - Chủ DNTN Vạn Trường yêu cầu Toà án buộc bị đơn hoàn trả số tiền 500.000.000 đồng cho nguyên đơn do bị đơn đã nhận nhưng không thực hiện được hợp đồng tư vấn số 002/HĐDVTV nêu trên. Nguyên đơn đã trả 500.000.000 đồng cho ông LQ_Hoàng - Chủ DNTN Vạn Trường nên ông LQ_Hoàng - Chủ DNTN Vạn Trường không có tranh chấp gì đối với số tiền trên.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Vẫn giữ nguyên ý kiến như trên. Bị đơn vắng mặt.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày:

Căn cứ theo công văn số 445/STNMT-KS ngày 18/02/2014 của Sở tài nguyên môi trường tỉnh ĐN thì quy trình để một đơn vị được cấp giấy phép khai thác cát phải qua các bước như sau:

- Hồ sơ cấp giấy phép thăm dò.

- Hồ sơ phê duyệt trữ lượng.

- Hồ sơ đánh giá tác động môi trường và dự án cải tạo phục hồi môi trường.

- Hồ sơ cấp giấy chứng nhận đầu tư

- Hồ sơ cấp giấy phép khai thác khoáng sản.

Tuy nhiên, phía bị đơn đã không thực hiện bất cứ một hồ sơ nào, không có một tài liệu hay công văn nào chứng minh bị đơn đang thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Và đến ngày 04/4/2013 thì Uỷ ban nhân dân tỉnh ĐN đã cấp giấy phép khai thác cát cho một đơn vị khác nhưng bị đơn cũng không biết. Điều đó cho thấy rằng bị đơn là một đơn vị tư vấn, làm dịch vụ nhưng đã không thực hiện các nghĩa vụ nào theo hợp đồng. Vì vậy, từ những phân tích trên và căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ cho thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X phát biểu: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa hôm nay những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng, quan hệ tranh chấp và thẩm quyền:

Nguyên đơn NĐ_Công ty TNHH Hà Anh khởi kiện tranh chấp “Hợp đồng dịch vụ tư vấn” với bị đơn BĐ_Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Thương mại Minh Châu là quan hệ tranh chấp kinh doanh thương mại được qui định tại điểm h khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi, bổ sung năm 2011.

Xét bị đơn có trụ sở tại Quận X nên căn cứ điểm a khoản 1 điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự, vụ kiện trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận X.

Xét vụ kiện vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 319 Luật Thương Mại năm 2005.

Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập đến lần thứ hai nhưng bị đơn không có mặt nên Tòa án Quận X xét xử vắng mặt theo qui định tại điểm b khoản 2 Điều 199, khoản 3 Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi bổ sung năm 2011.

Xét yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày, xác nhận của các đương sự thì vào ngày 09/5/2012 giữa nguyên đơn và bị đơn có ký hợp đồng tư vấn số 002/HĐDVTV về việc bị đơn sẽ tư vấn, lập kế hoạch, hướng dẫn, cử người trợ giúp cho nguyên đơn trong việc “Xin cấp giấy phép khai thác cát xây dựng trên sông ĐN (thuộc địa phận xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN) tại Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh ĐN. Hợp đồng trên đã tuân thủ đúng qui định pháp luật do đó các chủ thể tham gia trong hợp đồng phải thực hiện đúng các nội dung đã thỏa thuận.

Căn cứ vào Điều 1 của hợp đồng thì trách nhiệm của bên B (bị đơn) phải có nghĩa vụ tư vấn, lập kế hoạch, hướng dẫn nguyên đơn trong việc xin cấp giấy phép cát tại nửa lòng sông ĐN (thuộc địa phận xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN), chiều dài đoạn khai thác từ 12 đến 23 km từ điểm giáp giới tỉnh BP về phía hạ lưu.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 59 Luật khoáng sản năm 2010 thì hồ sơ cấp giấy phép khai thác khoáng sản bao gồm: “...quyết định phê duyệt trữ lượng khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” và để được cấp quyết định phê duyệt trữ lượng khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 50 Luật khoáng sản năm 2010 thì hồ sơ phê duyệt trữ lượng khoáng sản phải có giấy phép thăm dò khoáng sản.

Tuy nhiên, tại Công văn số 445/STNMT-KS ngày 18/02/2014, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh ĐN cho biết Công ty TNHH Xuân Hoà chưa nộp hồ sơ xin cấp giấy phép khai thác cát xây dựng trên sông ĐN đoạn thuộc xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN mà chỉ mới nộp hồ sơ xin thăm dò cát xây dựng trên sông ĐN đoạn thuộc xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN và trước thời điểm nguyên đơn nộp hồ sơ thăm dò ngày 15/02/2012 thì khu vực trên đã có một đơn vị khác nộp hồ sơ xin thăm dò và được Ủy ban nhân dân tỉnh ĐN cấp phép thăm dò. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh ĐN đã ban hành văn bản số 1484/STNMT-KS ngày 25/5/2012 trả lời cho nguyên đơn biết hồ sơ xin cấp phép thăm dò của nguyên đơn không được xem xét giải quyết. Và ngày

04/4/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh ĐN đã cấp giấy phép số 981/GP-UBND cho phép Công ty Cổ phần Công trình giao thông ĐN được hoạt động khai thác cát xây dựng tại mỏ cát xây dựng dựng trên sông ĐN (thuộc địa phận xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN).

Như vậy, căn cứ vào Điều 1 của hợp đồng thì nghĩa vụ cơ bản của bị đơn là tư vấn, lập kế hoạch, hướng dẫn nguyên đơn để đạt được mục đích cuối cùng là nguyên đơn được cấp giấy phép khai thác cát tại địa điểm trên. Tuy nhiên, căn cứ vào công văn số 445/STNMT-KS ngày18/02/2014 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh ĐN thì nguyên đơn chưa hề nộp hồ sơ xin cấp giấy phép khai thác cát, điều này đồng nghĩa với việc bị đơn đã không thực hiện nghiã vụ theo quy định của hợp đồng, ngoài ra, bị đơn cho rằng 500.000.000 đồng là chi phí các khoản tài chính để chi tiêu trong quá trình thực hiện hợp đồng mà bị đơn được hưởng, tuy nhiên cụ thể đó là những chi phí gì thì bị đơn không rõ và bị đơn vẫn tiếp tục cho rằng hiện nay bị đơn vẫn đang tiếp tục nộp hồ sơ xin cấp giấy phép cho nguyên đơn và bản thân bị đơn cũng không biết hiện nay Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh ĐN đã cấp giấy phép cho Công ty nào hay chưa. Kể từ ngày ký hợp đồng cho đến nay đã hơn 02 năm nhưng bị đơn vẫn cho rằng mình đang tiếp tục nộp hồ sơ xin cấp giấy phép khoáng sản cho nguyên đơn và cũng không hề biết rằng hồ sơ xin cấp giấy giấy phép khai thác khoáng sản đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh ĐN đã cấp giấy phép số 981/GP-UBND cho phép Công ty Cổ phần Công trình giao thông ĐN được hoạt động khai thác cát xây dựng tại mỏ cát xây dựng trên sông ĐN (thuộc địa phận xã ĐL, huyện TP, tỉnh ĐN) vào ngày 04/4/2013.

Như vậy, đã có đủ cơ sở để xác định phía bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 312 Luật Thương Mại năm 2005. Do đó căn cứ khoản 6 Điều 292, khoản 2, điểm b khoản 4 Điều 312 Luật thương mại năm 2005 và Điều 425 Bộ luật dân sự nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hủy bỏ hợp đồng trên và buộc phía bị đơn phải có trách nhiệm hoàn trả số tiền 500.000.000 đồng cho nguyên đơn ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là phù hợp với các điều luật đã viện dẫn ở trên.

Xét đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

Về án phí:

Căn cứ khoản 1 Điều 131 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Căn cứ Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội qui định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xét, bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 500.000.000 đồng nên phải chịu án phí là 24.000.000 đồng. Nguyên đơn được hoàn trả án phí tạm nộp.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm h, khoản 1 Điều 29, điểm b khoản 1 Điều 33, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 199, khoản 3 Điều 202, khoản 1 Điều 131, Điều 238, khoản 1 Điều 245 Bộ luật Tố tụng Dân sự đã sửa đổi, bổ sung năm 2011.

- Áp dụng Điều 306, Điều 319 Luật Thương mại năm 2005.

- Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án Dân sự.

- Áp dụng Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội qui định về án phí, lệ phí Tòa án.

TUYÊN XỬ:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn NĐ_Công ty TNHH Hà Anh .

- Hủy bỏ hợp đồng tư vấn số 002/HĐDVTV ký ngày 09/5/2012 giữa NĐ_Công ty TNHH Hà Anh và BĐ_Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Thương mại Minh Châu.

- Buộc BĐ_Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Thương mại Minh Châu phải hoàn trả cho NĐ_Công ty TNHH Hà Anh số tiền là 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng).

Thực hiện ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bên được thi hành có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thực hiện đúng việc thanh toán tiền, thì bên phải thi hành án phải chịu tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Về án phí:

- BĐ_Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Thương mại Minh Châu phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng).

Hoàn trả cho NĐ_Công ty TNHH Hà Anh án phí đã tạm nộp là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng) theo biên lai thu số 06606 ngày 01/10/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

3. Về quyền kháng cáo:

NĐ_Công ty TNHH Hà Anh và ông LQ_Lê Hoàng – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Vạn Trường được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

BĐ_Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Thương mại Minh Châu được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

 

 

Tên bản án

Bản án số: 259/2014/KDTM- ST Tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn

Số hiệu 259/2014/KDTM- ST Ngày xét xử 10/09/2014
Bình luận án