TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Số: 26/2007/KDTM-ST

Ngày: 15/10/2007

v/v:  Tranh chấp hợp đồng cung cấp lắp đặt thiết bị

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                                                                         

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Bà Lưu Thị Hường - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa​

2. Bà  Trần Thị Hường- Hội thẩm nhân dân

3. Bà Lê Thị Lan- Hội thẩm nhân dân

Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Trần Lan Anh - CBTA.

Ngày 15 tháng 10 năm 2007, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 518/2006/TLST-KDTM ngày 01 tháng 08 năm 2006 về tranh chấp hợp đồng mua bán theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1833/2007/QĐST-KDTM ngày 11 tháng 10 năm 2007 giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:
CÔNG TY TNHH KỸ THUẬT CƠ ĐIỆN SÀI GÒN

Địa chỉ : A 15 Phan Đình Giót, Phường 2, Q. Tân Bình, TPHCM

Đại diện : Ông Lê Văn Long, Giám đốc (Có mặt)

BỊ ĐƠN:
CÔNG TY TƯ VẤN VÀ ĐẦU TƯ CƠ ĐIỆN

Địa chỉ : 55 Trần Nhật Duật, phường Tân Định, Quận 1, TPHCM

Đại diện : Ông Phạm Văn Phương, Giám đốc (Có mặt)

NHẬN THẤY

Nguyên đơn trình bày :

Ngày 22/11/2000, Công ty TNHH Kỹ thuật Cơ điện Sài gòn (S.I.S) có ký Hợp đồng kinh tế số 001-Agro/12-00/HĐKT với CÔNG TY TƯ VẤN VÀ ĐẦU TƯ CƠ ĐIỆN (Kungfu) về việc thực hiện trọn gói cung cấp – lắp đặt 2 hệ thống thiết bị cấp nước tự động cho 2 lò hơi tại Nhà máy đường Trị An.

Theo Biên bản đối chiếu công nợ ngày 08/01/2004 và Phiếu đề nghị thanh toán ngày 25/01/2005 thì Kungfu còn nợ S.I.S số tiền là 91.000.000 đồng.

Sau nhiều lần yêu cầu Kungfu thanh toán nhưng không được đáp ứng, S.I.S đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu Kungfu phải thanh toán số tiền mua hàng còn nợ nói trên.

Bị đơn trình bày :

Xác nhận việc ký kết hợp đồng kinh tế nói trên giữa 2 công ty. Tổng trị giá hợp đồng là 242.000.000 (mỗi hệ thống trị giá 121.000.000 đồng). Kungfu đã thanh toán cho S.I.S 151.000.000. Còn lại 91.000.000 đồng, Kungfu không đồng ý thanh toán tiếp vì hệ thống thiệt bị thứ hai chưa được Nhà máy đường Trị An nghiệm thu như thỏa thuận trong hợp đồng giữa 2 bên là số tiền đợt 2 chỉ được thanh toán sau khi thiết bị đã được nghiệm thu và bàn giao cho Nhà máy đường Trị An. Đồng thời Kungfu có yêu cầu phản tố đòi S.I.S phải trả lại số tiền đã nhận thừa là 30.000.000 đồng so với trị giá hệ thống thiết bị thứ nhất đã được nghiệm thu là 121.000.000 đồng.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành, các bên đương sự vẫn giữ nguyên ý kiến.

Tại phiên tòa hôm nay :

- Nguyên đơn : Yêu cầu Kungfu phải thanh toán ngay số tiền mua hàng còn nợ theo Hợp đồng kinh tế số 001-Agro/12-00/HĐKT ngày 22/11/2000 giữa 2 bên là 91.000.000 đồng.

Bị đơn : Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, đồng thời yêu cầu S.I.S phải hoàn trả số tiền đã nhận tạm ứng cho hệ thống thiết bị thứ hai là 30.000.000 đồng.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :

1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án :

Đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại (hợp đồng mua bán) giữa các tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận, bị đơn có trụ sở tại Quận 1, TPHCM với trị giá phần hợp đồng kinh tế có tranh chấp lớn hơn 50.000.000 đồng. Vì vậy, căn cứ vào điểm a, khoản 1 Điều 29, khoản 1 Điều 34, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 1 Nghị quyết số 742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 của Uûy ban thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự cho các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TPHCM theo thủ tục tố tụng dân sự.

2. Về thời hiệu khởi kiện :

Ngày 11/9/2003, các bên ký biên bản nghiệm thu – bàn giao hệ thống cấp nước thứ hai và biên bản thanh lý hợp đồng. Ngày 27/01/2005, Kungfu ký xác nhận vào Phiếu đề nghị thanh toán của S.I.S và ngày 31/01/2005, thanh tóan tiếp 30.000.000 đồng. Ngày 29/6/2006, S.I.S nộp đơn khởi kiện đến Tòa án.

Căn cứ vào Điều 242 Luật thương mại năm 1997, điểm a, khoản 3, Điều 159, Điều 160 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 162 Bộ luật dân sự năm 2005, nguyên đơn đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm hoặc kể từ ngày bị đơn thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết.

3. Về nội dung tranh chấp :

a) Xét yêu cầu của nguyên đơn đòi Kungfu phải thanh tóan số tiền mua hàng còn nợ của Hợp đồng kinh tế số 001-Agro/12-00/HĐKT ngày 22/11/2000 là 91.000.000 đồng:

Căn cứ vào các chứng cứ do nguyên đơn xuất trình, bao gồm: Hợp đồng kinh tế số 001-Agro/12-00/HĐKT ngày 22/11/2000; các biên bản nghiệm thu, bàn giao ngày 09/7/2001 và 11/9/2003; Biên bản thanh lý hợp đồng ngày 11/9/2003; Biên bản đối chiếu công nợ ngày 08/01/2004; Phiếu đề nghị thanh tóan ngày 25/01/2005 của S.I.S có ý kiến đồng ý của Giám đốc Kungfu; Phiếu thu ngày 31/01/2005 cùng với lời trình bày, xác nhận của các đương sự tại phiên tòa, đã có đủ cơ sở để xác định Kungfu có mua của S.I.S 2 hệ thống thiết bị cấp nước tự động với tổng trị giá là 242.000.000 đồng, đã thanh tóan 151.000.000 đồng, còn nợ lại 91.000.000 đồng. Khỏan nợ này đã quá hạn thanh tóan. Yêu cầu của nguyên đơn đòi thanh tóan nợ là phù hợp với quy định của pháp luật tại các điều 63, 71, 222 và 223 Luật thương mại năm 1997.

Do đó, yêu cầu của nguyên đơn đòi Kungfu phải thanh tóan số tiền còn nợ nói trên là có căn cứ và hợp pháp, cần được chấp nhận.

b) Xét ý kiến trả lời và yêu cầu phản tố của bị đơn không đồng ý thanh toán tiếp đồng thời đòi S.I.S phải hòan trả số tiền đã nhận tạm ứng cho hệ thống thiết bị thứ hai là 30.000.000 đồng vì hệ thống thiết bị này chưa được Nhà máy đường Trị An nghiệm thu:

Căn cứ vào các chứng cứ do nguyên đơn xuất trình đã được bị đơn xác nhận tại phiên tòa, bao gồm: Biên bản nghiệm thu thiết bị ngày 11/9/2003; Biên bản thanh lý hợp đồng ngày 11/9/2003; Biên bản đối chiếu công nợ ngày 08/01/2004; Phiếu đề nghị thanh toán ngày 25/01/2005 của S.I.S có ghi ý kiến của Giám đốc Kungfu ngày 27/01/2005 “Phòng TCKT cân đối trả nợ bớt cho Cty TNHH Kỹ thuật Cơ điện”, đồng thời căn cứ vào sự xác nhận của chính Giám đốc Kungfu tại phiên hòa giải ngày 06/9/2006 và tại phiên tòa hôm nay về việc Kungfu đã chấp nhận Biên bản đối chiếu công nợ do ông Bùi Trung Thành, Phó giám đốc Kungfu ký ngày 08/01/2004 (trong đó có xác nhận nợ của cả 2 hệ thống thiết bị là 172.000.000 đồng) nên Kungfu mới tiếp tục thanh toán thêm cho S.I.S 30.000.000 đồng vào ngày 31/01/2005, đã có đủ cơ sở để xác định Kungfu đã chấp nhận biên bản nghiệm thu hệ thống thiết bị thứ hai, biên bản thanh lý hợp đồng và biên bản đối chiếu công nợ mà Phó giám đốc Kungfu đã ký trước đó với S.I.S mặc dù tại phiên tòa hôm nay, Giám đốc Kungfu không thừa nhận có ủy quyền cho Phó giám đốc công ty ký các biên bản nói trên.

Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi các bên ký các biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng nói trên (tháng 9/2003) đến khi nguyên đơn khởi kiện đến Tòa án (tháng 6/2006), Kungfu hoàn toàn không có bất cứ một khiếu nại nào về chất lượng thiết bị hoặc khiếu nại về các biên bản mà Phó giám đốc Kungfu đã ký theo quy định tại Điều 241 Luật thương mại năm 1997.

Do đó, ý kiến trả lời và yêu cầu phản tố của bị đơn không chấp nhận thanh toán tiếp và đòi hoàn trả số tiền đã tạm ứng cho hệ thống thiết bị thứ hai vì cho rằng hệ thống thiết bị này chưa được Nhà máy đường Trị An nghiệm thu theo thỏa thuận trong hợp đồng là không có căn cứ để được chấp nhận..

4. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 15, 18 và 19 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án :

- Kungfu phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả cho S.I.S và số tiền yêu cầu phản tố không được chấp nhận (91.000.000 đ + 30.000.000 đ).

- S.I.S không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 63, 71, 222, 223 và 241 Luật thương mại năm 1997;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc CÔNG TY TƯ VẤN VÀ ĐẦU TƯ CƠ ĐIỆN phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH Kỹ thuật Cơ điện Sài Gòn số tiền mua thiết bị còn nợ theo Hợp đồng kinh tế số 001-Agro/12-00/HĐKT ngày 22/11/2000 giữa hai bên là 91.000.000 đ(chín mươi mốt triệu đồng).

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn đòi Công ty TNHH Kỹ thuật Cơ điện Sài Gòn phải hòan trả số tiền đã nhận tạm ứng để thực hiện Hợp đồng kinh tế số 001-Agro/12-00/HĐKT ngày 22/11/2000 giữa hai bên là 30.000.000 đồng.

3. Về án phí :

CÔNG TY TƯ VẤN VÀ ĐẦU TƯ CƠ ĐIỆN phải chịu án phí sơ thẩm là 6.050.000 đ (sáu triệu không trăm năm chục ngàn đồng); cấn trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 750.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 002692 ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Thi hành án dân sự TPHCM). CÔNG TY TƯ VẤN VÀ ĐẦU TƯ CƠ ĐIỆN còn phải nộp thêm 5.300.000 đồng.

Công ty TNHH Kỹ thuật Cơ điện Sài Gòn không phải chịu án phí sơ thẩm nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.275.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 002570 ngày 14 tháng 7 năm 2006 của Thi hành án dân sự TPHCM).

4. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Công ty TNHH Kỹ thuật Cơ điện Sài Gòn, nếu CÔNG TY TƯ VẤN VÀ ĐẦU TƯ CƠ ĐIỆN không chịu thanh toán số tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

5. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

 

Tên bản án

Bản án số 26/2007/KDTM-ST Tranh chấp hợp đồng cung cấp lắp đặt thiết bị

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English