TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN I THÀNH PHỐ HCM

Bản án số: 262/2012/KDTM- ST

Ngày: 06/12/2012

V/v: “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

------------------

 

 

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X – THÀNH PHỐ HCM

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Ông Hoàng Việt P - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:   

2. Ông Lê Văn K - Hội thẩm nhân dân

3. Bà Cao Kim D - Hội thẩm nhân dân

BàNguyễn Thị Thu – Cán bộ Tòa án nhân dân Quận X, Tp. HCM - Thư ký phiên toà

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận X, Tp. HCM tham gia phiên tòa: Bà Tăng Tố K – Kiểm sát viên.

Trong ngày 06 tháng 12 năm 2012 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận X, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2012/TLST-KDTM ngày 17/01/2012 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 867/2012/QĐST-XX ngày 20 tháng 11 năm 2012, giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:

NĐ_Công ty cổ phần hàng hải Sang Sang .

Địa chỉ: 06 đường số 5, KDC NL, phường TTĐ, quận Y, Tp. HCM.

Người đại diện hợp pháp: ông Lý Văn Huy – Đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 05/GUQ-SS ngày 05/12/2011). (có mặt)

BỊ ĐƠN:

BĐ_Công ty cổ phần vận tải và thương mại Phú Trọng .

Địa chỉ: 140A đường NKKN, Quận X, Tp. HCM.

Người đại diện hợp pháp: bà Phan Thị Mơ – Đại diện theo ủy quyền (Theo giấy ủy quyền đề ngày 04/9/2011).(có mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn: Ông Hồ Nguyên L - Luật sư của văn phòng luật sư Luật TN thuộc Đoàn luật sư Tp. HCM.

NGỪỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN: 

Bà LQ_Hồ Thị Nhất, sinh năm 1978

Địa chỉ: 47/2B Đường 27, KP9, phường HBC, quận TĐ, tp. HCM. (vắng mặt tại phiên

tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện và tại Tòa, Nguyên đơn NĐ_Công ty cổ phần hàng hải Sang Sang (sau đây gọi tắt là NĐ_Công ty SS) ủy quyền cho ông Lý Văn Huy trình bày:

Căn cứ vào thỏa thuận giữa hai bên, trong năm 2009 NĐ_Công ty cổ phần hàng hải Sang Sang đã cung ứng dịch vụ tàu lai và buộc cởi dây cho tàu biển theo yêu cầu của BĐ_Công ty cổ phần vận tải và thương mại Phú Trọng (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty OTC) thông qua các đơn đặt hàng của Đại lý của BĐ_Công ty OTC.

Căn cứ các dịch vụ đã thực hiện, Nguyên đơn đã phát hành các hóa đơn giá trị gia tăng và gửi cho Bị đơn, cụ thể:

+ Hóa đơn số 002877 ngày 31/8/2009 cho khách hàng là BĐ_Công ty OTC, giá trị 46.309.350 đồng ( Tàu lai hỗ trợ tàu OTC Dragon, buộc mở dây, đến ngày 28/7/2009 và ra ngày 11/8/2009);

+ Hóa đơn số 002878 ngày 31/8/2009 cho khách hàng là BĐ_Công ty OTC, giá trị 23.154.675 đồng ( Tàu lai hỗ trợ tàu Pacific Sun, buộc mở dây, ra ngày 18/7/2009);

+ Hóa đơn số 002880 ngày 31/8/2009 cho khách hàng là BĐ_Công ty OTC, giá trị 46.309.350 đồng ( Tàu lai hỗ trợ tàu Pacific Sun, buộc mở dây, vào ngày 05/8/2009 và ra ngày 16/8/2009).

Tổng cộng 115.773.375 đồng, cấn trừ 20.283.764 đồng, còn lại 95. 489.611 đồng.

Cụ thể số tiền nợ chi tiết của các dịch vụ lai dắt, buộc và cởi dây của các con tàu của OTC như sau:

+ Tàu Pacific Sun ngày 18/07/2009 số tiền dịch vụ: 23.154.675 đồng, đã thanh toán 20.283.764 đồng, còn nợ lại 2.870.911 đồng.

+ Tàu OTC Dragon ngày 28/7/2009, số tiền còn nợ 23.154.675 đồng.

+ Tàu OTC Dragon ngày 11/8/2009, số tiền còn nợ 23.154.675 đồng.

+ Tàu Pacific Sun ngày 05/8/2009, số tiền còn nợ 23.154.675 đồng.

+ Tàu Pacific Sun ngày 16/8/2009, số tiền còn nợ 23.154.675 đồng.

(Tổng cộng: 115.773.375 đồng, cấn trừ 20.283.764 đồng, còn lại 95. 489.611 đồng).

Ngày 31/12/2010 Nguyên đơn đã có thư xác nhận số dư công nợ gửi cho Bị đơn và Bị đơn cũng đã xác nhận số dư công nợ như trên. Tuy nhiên đến nay Bị đơn vẫn chưa thanh toán số tiền dịch vụ cho Nguyên đơn.

Nay, Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc Bị đơn phải thanh toán số tiền dịch vụ còn nợ là 95.489.611 đồng và tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán trong hoạt động kinh doanh thương mại tạm tính từ ngày 31/12/2009 đến ngày 06/12/2012 (35 tháng 6 ngày) theo mức lãi suất nợ quá hạn 30,50%/ năm, tổng cộng là 86.563.985 đồng.

Bị đơn ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Hưng, sau là bà Phan Thị Mơ trình bày:

Bị đơn không còn hồ sơ lưu đối với những con tàu Nguyên đơn trình bày đã cung cấp dịch vụ vì hiện tại hai con tàu được đề cập trong đơn khởi kiện của Nguyên đơn không còn dưới sự quản lý của Bị đơn. Sau khi xem xét các chứng cứ do Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án, Bị đơn xác định Đơn đặt hàng (Order) là mẫu của BĐ_Công ty OTC, còn dấu vuông Bị đơn cho rằng không phải là con dấu pháp lý của BĐ_Công ty OTC. Hình thức các đơn đặt hàng cũng khác nhau, có văn bản dấu vuông, có văn bản không dấu; người đặt lệnh giao dịch cũng có nhiều người khác nhau, không có hợp đồng lai dắt hoặc thư xác nhận của Giám đốc OTC ký duyệt về giá, điều kiện thanh toán, thư đề nghị thanh toán của đại lý.. nên BĐ_Công ty OTC không chấp nhận các đơn đặt hàng này là hợp lệ vì trái với điều lệ của Công ty qui định chỉ có giám đốc mới có quyền thay mặt Công ty để ký kết các hợp đồng với khách hàng. Ông Bùi Trung Tình và ông Bùi Tiến Thủ là hai người ký trên đơn đặt hàng (oder) không phải là nhân viên đại lý tàu biển của BĐ_Công ty OTC giai đoạn năm 2009.

Đối với thư xác nhận số dư công nợ ký ngày 31/12/2010: Dấu tròn của pháp nhân BĐ_Công ty OTC đã được đại diện Bị đơn xác nhận là được đóng bởi con dấu của OTC và chữ ký là chữ ký kế toán trưởng là bà LQ_Hồ Thị Nhất trong thư xác nhận số dư công nợ Bị đơn , nhưng việc kế toán trưởng của Công ty ký tên và đóng dấu trên thư xác nhận công nợ là không đúng thẩm quyền, trái với qui định tại điều lệ của Công ty. Ngày 12/9/2012, BĐ_Công ty OTC đã có cuộc họp nội bộ do ông Nguyễn Quốc Yên- giám đốc điều khiển, có sự tham gia của một số thành viên, trong đó có bà LQ_Hồ Thị Nhất – kế toán BĐ_Công ty OTC. Theo biên bản cuộc họp do Bị đơn nộp cho Tòa: Tại cuộc họp bà LQ_Nhất (là người đã ký xác nhận vào biên bản xác nhận công nợ ngày 31/12/2010) có ý kiến cho rằng bà đã sai sót khi ký vào văn bản xác nhận công nợ, xin chịu trách nhiệm trước ban giám đốc và có trách nhiệm gửi văn bản đến NĐ_Công ty SS về việc nhầm lẫn này. Với các lập luân trên Bị đơn không chấp nhận giá trị của thư xác nhận công nợ nói trên và cho rằng không có giao dịch theo các đơn đặt hàng và không hề nhận được các hóa đơn liên quan đến công nợ với Nguyên đơn nên không có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ như yêu cầu của Nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà LQ_Hồ Thị Nhất trình bày:

Vào thời điểm tháng 12/2010 bà là kế toán trưởng của BĐ_Công ty OTC. Việc bà ký xác nhận vào biên bản xác nhận công nợ ngày 31/12/2010 là do sơ xuất, không kiểm tra tính xác thực của sự việc cũng như số liệu thực tế. Do vậy cho rằng biên bản xác nhận công nợ ngày 31/12/2010 là không có giá trị ràng pháp lý. Bà đề nghị Tòa xét xử vụ kiện theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình chuẩn bị xét xử theo yêu cầu của đại diện Nguyên đơn, Tòa đã có văn bản xác minh, thu thập chứng cứ tại Cục Thuế thành phố HCM về báo cáo thuế của Bị đơn trong thời gian các bên thực hiện giao dịch.

Tại phiên tòa hôm nay Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu của mình đối với Bị đơn.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

NĐ_Công ty cổ phần hàng hải Sang Sang (SS) khởi kiện BĐ_Công ty cổ phần vận tải và thương mại Phú Trọng ( OTC) yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán và tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo giao dịch mà các bên đã thực hiện. Tranh chấp giữa các bên phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại về hợp đồng dịch vụ giữa hai pháp nhân có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận. Bị đơn có trụ sở tại Quận X, Tp. HCM; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 29, điểm a khoản 1 Điều 33, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ Luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011, vụ án được thụ lý trong thời hạn khởi kiện. Do vậy đây là vụ án kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận X.

- Về tư cách đương sự:

Nguyên đơn ủy quyền tham gia tố tụng cho ông Lý Văn Huy, Bị đơn ủy quyền tham gia tố tụng cho ông Nguyễn Văn Hưng, sau là bà Phan Thị Mơ. Xét đây là tự nguyện và hợp lệ nên chấp nhận.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X phát biểu: Trong quá trình thụ lý, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, Tòa án nhân dân Quận X, Thẩm phán, Hội đồng xét xử sơ thẩm và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi bổ sung năm 2011 và không có kiến nghị gì về tố tụng.

- Về nội dung yêu cầu của đương sự:

+ Xét giá trị của căn cứ xác lập giao dịch các bên: Theo trình bày của Nguyên đơn: Căn cứ vào thỏa thuận giữa hai bên trong năm 2009 Nguyên đơn đã cung ứng dịch vụ tàu lai và buộc cởi dây cho tàu biển theo yêu cầu của BĐ_Công ty OTC thông qua các đơn đặt hàng (Order) của phòng đại lý Công ty do ông Bùi Trung Tình và ông Bùi Tiến Thủ là người đại diện ký xác nhận. Đại diện Bị đơn xác nhận Đơn đặt hàng (Order) là mẫu văn bản của BĐ_Công ty OTC, còn dấu vuông Bị đơn cho rằng không phải là con dấu pháp lý của BĐ_Công ty OTC; Hình thức các đơn đặt hàng cũng khác nhau, có văn bản đóng dấu vuông, có văn bản không đóng dấu; người đặt lệnh giao dịch cũng có nhiều người khác nhau nên BĐ_Công ty OTC không chấp nhận các đơn đặt hàng này là hợp lệ vì trái với điều lệ của Công ty qui định chỉ có giám đốc mới có quyền thay mặt Công ty để ký kết các hợp đồng với khách hàng. Nhưng qua kiểm chứng thực tế thì các giao dịch như trên được áp dụng thành thông lệ tại các Cảng biển trên địa bàn thành phố HCM và khi đơn đặt hàng chỉ cần có chữ ký của đại lý gửi qua là đủ. Theo đó dựa trên các đơn đặt hàng của BĐ_Công ty OTC do đại diện đại lý BĐ_Công ty OTC là ông Bùi Trung Tình, Bùi Tiến Thủ ký tên và gửi bản FAX cho NĐ_Công ty SS thì giao dịch giữa hai bên đã được thực hiện. Sau đó NĐ_Công ty SS đã xuất các hóa đơn cho BĐ_Công ty OTC sau mỗi lần thực hiện xong dịch vụ.

Các hóa đơn nói trên được phát hành hợp lệ, đúng theo qui định của cơ quan quản lý nhà nước về thuế. Được Nguyên đơn gửi cho Bị đơn trong khoảng 02 đến 03 tuần sau khi giao dịch hoàn tất và Bị đơn đã không có thư phản hồi phản đối về các hóa đơn nói trên. Đại diện Bị đơn cũng xác nhận hiện tại hai con tàu được đề cập trong đơn khởi kiện của Nguyên đơn không còn dưới sự quản lý của Bị đơn nên không còn lưu trữ hồ sơ nữa. Như vậy Bị đơn cũng không biết chính xác có hay không có giao dịch này hay không. Xét đối với thư xác nhận số dư công nợ ký ngày 31/12/2010: Con dấu đóng trên văn bản này đã được đại diện Bị đơn xác nhận là đúng với dấu pháp nhân của Bị đơn, còn chữ ký là chữ ký của bà LQ_Hồ Thị Nhất- kế toán trưởng của Bị đơn. Xét việc quản lý, sử dụng con dấu và thẩm quyền là đóng dấu trên văn bản của Bị đơn là thuộc trách nhiệm của người đứng đầu BĐ_Công ty OTC. Nếu Bị đơn cho rằng hành vi ký tên, đóng dấu trên thư xác nhận công nợ của bà LQ_Nhất là không đúng quy định, quy chế, điều lệ của Bị đơn thì có thể xem xét trách nhiệm cá nhân của bà LQ_Nhất đối với Bị đơn trong quan hệ lao động. Thư xác nhận công nợ kể trên được Nguyên đơn gửi Bị đơn ghi gửi BĐ_Công ty cổ phần vận tải và thương mại Phú Trọng OTC, chứ không gửi cho cá nhân kế toán trưởng, theo nguyên tắc sẽ do người có trách nhiệm của Công ty tiếp nhận và xử lý. Theo đó văn bản trên đã được Bị đơn đóng dấu xác nhận, có đóng dấu giáp lai giữa Thư xác nhận công nợ và Bảng kê đính kèm. Xét việc đại diện Bị đơn và Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Bị đơn cho rằng các đơn đặt hàng và văn bản xác nhận công nợ ngày 31/12/2010 của BĐ_Công ty OTC là không hợp lệ nên không có giá trị pháp lý là không có căn cứ để chấp nhận.

Về ý kiến của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Bị đơn cho rằng và vụ kiện đã hết thời hiệu khởi kiện do Nguyên đơn phát hành các hóa đơn vào ngày 31/8/2009 nên đã vượt quá 02 năm là không có căn cứ để chấp nhận vì thời hiệu khởi kiện 02 năm được tính từ ngày 31/12/2010 theo quy định tại Điều 160 Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi bổ sung năm 2011 và Điều 162 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 319 Luật thương mại năm 2005, do Nguyên đơn đã có đơn khởi kiện, được Tòa án nhân dân quận I thụ lý ngày 17/01/2012. Như vậy vụ án đã được thụ l trong thời hạn khởi kiện.

Mặt khác, theo văn bản cung cấp thông tin số 8225/CT-KT4 ngày 26/10/2012 của Cục thuế thành phố HCM và tại trang 13 bản kê hóa đơn, chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào của Tờ khai thuế giá trị gia tăng kỳ tháng 8/2009 mà BĐ_Công ty OTC báo cáo cho Cục thuế thành phố HCM đã thể hiện việc Bị đơn đã nhận được các hóa đơn số 002877; 002878 và 002880 cùng ngày 31/8/2009 ( có nội dung như đã liệt kê ở trên) do Nguyên đơn phát hành cho các dịch vụ đối với Bị đơn. Bị đơn đã xác nhận các giao dịch này nên đã báo cáo các chứng từ (hóa đơn) liên quan cho cơ quản lý về thuế. Ý kiến của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Bị đơn cho rằng việc Bị đơn nhận hóa đơn không đồng nghĩa với việc xác nhận các giao dịch phát sinh trong tháng vì có thể sẽ yêu cầu bên phát hành hóa đơn phải hủy hóa đơn và yêu cầu cơ quan quản lý về thuế xuất toán số tiền phát sinh nếu giữa các bên không thực hiện các giao dịch hoặc có bất đồng về giá của giao dịch là không có căn cứ chấp nhận vì sau khi nhận, kê khai các hóa đơn trên với cơ quan thuế thì như nhận định ở trên, Bị đơn đã không có bất cứ một động thái nào để yêu cầu Nguyên đơn xem xét để hủy các hóa đơn này. Từ những nhận định trên đã xác định được giữa Nguyên đơn và Bị đơn đã xác lập, thực hiện các giao dịch là NĐ_Công ty SS đã thực hiện các dịch vụ cung ứng dịch vụ tàu lai và buộc cởi dây cho tàu biển theo yêu cầu của BĐ_Công ty OTC thông qua các đơn đặt hàng (Order) của phòng đại lý của BĐ_Công ty OTC .

+ Xét đơn giá NĐ_Công ty SS áp dụng trong dịch vụ:

Do các bên không có thỏa thuận về phương pháp xác định giá dịch vụ thì giá dịch vụ được xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý. Theo thông lệ tại các cảng biển trên đại bàn thành phố HCM: Các đơn vị tàu lai nếu không có biểu giá riêng đăng ký với Sở Tài chính- Vật giá thì đều sử dụng biểu cước do Công ty TNHH một thành viên Cảng Sài Gòn ban hành. Cụ thể trong đơn giá áp dụng với BĐ_Công ty OTC, Nguyên đơn đã dùng biểu cước của Cảng Sài Gòn để tính. Ngày 07/8/212 Tòa án nhân dân Quận X có công văn số 241/TAQ1 yêu cầu Công ty TNHH một thành viên Cảng Sài Gòn cung cấp biểu giá dịch vụ cảng biển, ngày 14/8/2012 Công ty TNHH một thành viên Cảng Sài Gòn đã cung cấp biểu giá dịch vụ cho Tòa. Theo đó, giá dịch vụ tàu lai lớn là 600 USD/ lần và buộc, cởi dây tàu biển khớp với biểu giá NĐ_Công ty SS đã áp dụng trong giao dịch với BĐ_Công ty OTC. Thực tế sau khi nhận được các hóa đơn do Nguyên đơn phát hành, Bị đơn cũng không có kiến gì nên được coi như mặc nhiên chấp nhận về giá trị thanh toán của các dịch vụ đã Nguyên đơn thực hiện. Do vậy, xét yêu cầu của Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn phải thanh toán số tiền dịch vụ theo biểu giá cước kể trên là 95.489.611 đồng là có căn cứ chấp nhận.

+ Xét yêu cầu tiền lãi phát sinh là 86.563.985 đồng do Bị đơn chậm thanh toán số tiền 95.489.611 đồng, tạm tính từ ngày 31/12/2009 đến ngày 06/12/2012 (35 tháng 06 ngày) theo mức lãi suất 30.5%/năm:

Sau khi thực hiện các dịch cụ cho Bị đơn, ngày 31/8/2009 Nguyên đơn đã phát hành các hóa đơn số 002877; 002878 và 002880 cùng ngày 31/8/2009 ( có nội dung như đã liệt kê ở trên). Như vậy nghĩa vụ thanh toán của Bị đơn đã phát sinh sau một thời gian 04 tháng là hợp lý. Do vậy yêu cầu tính lãi phát sinh do Bị đơn chậm thực hiện nghĩa vụ trong kinh doanh thương mại từ ngày 31/12/2009 đến ngày 06/12/2012 (35 tháng 06 ngày) là có cơ sở chấp nhận về thời điểm tính lãi theo qui định tại điều 306 Luật thương mại năm 2005.

Theo  công  văn  số  1317.2012/PC-XLN  ngày  04/12/2012,  1695/CV-CNSG/12  ngày 04/12/2012, 10053/CV-PC.12 ngày 04/12/2012 của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng, Ngân hàng TMCP Việt Á; Ngân hàng TMCP Á Châu thì mức lãi suất nợ quá hạn tại thời điểm tháng 12/2012 lần lượt là 20,05%/ năm; 30,75%/ năm và 26,25%/ năm.

Như vậy thì lãi suất được áp dụng trong trường hợp này là 25,68%/ năm, tương đương 2,14%/ tháng. Do vậy tiền lãi theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm trên số tiền 95.489.611 đồng mà Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn tạm tính từ ngày 31/12/2009 đến ngày 06/12/2012 (35 tháng 06 ngày), cụ thể là: (95.489.611 đồng x 2,14%/ tháng) x 35 tháng + (95.489.611 đồng x 2,14%/ tháng)/ 30 ngày x 6 ngày = 71.930.400 đồng.

Về án phí kinh doanh thương mại có giá ngạch: Bị đơn phải chịu trên số tiền phải trả cho Nguyên đơn ( 95.489.611 đồng + 71.930.400 đồng = 167.420.011 đồng); Nguyên đơn phải chịu án phí trên số tiền yêu cầu không được chấp nhận (86.563.985 đồng – 71.930.400 đồng = 14.633.585 đồng) theo luật định.

Vì các lẽ trên,

Áp dụng:

QUYẾT ĐỊNH

- Điểm b, khoản 1 Điều 29; điểm b khoản 1 điều 33; điểm a, khoản 1 điều 35; các điều 131; các Điều: 160, Điều 199, Điều 238, Điều 243 và Điều 245 của Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011;

- Điều 162 Bộ luật dân sự năm 2005;

- Các Điều: 74, Điều 75, Điều 85, Điều 86, Điều 306 và Điều 319 Luật thương mại năm 2005;

- Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

- Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009 và danh mục mức án phí, lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh.

Xử :

1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn:

- Buộc BĐ_Công ty cổ phần vận tải và thương mại Phú Trọng có trách nhiệm trả cho NĐ_Công ty cổ phần hàng hải Sang Sang số tiền cụ thể:

+ Tiền nợ gốc: 95.489.611 đồng.

+ Tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tạm tính từ ngày 31/12/2009 đến ngày 06/12/2012 là 71.930.400 đồng.

Tổng cộng: 167.420.011 đồng.

Kể từ ngày NĐ_Công ty cổ phần hàng hải Sang Sang có đơn yêu cầu thi hành án, nếu BĐ_Công ty cổ phần vận tải và thương mại Phú Trọng chậm thanh toán khoản tiền trên thì phải trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Án phí sơ thẩm về tranh chấp kinh doanh thương mại có giá ngạch:

- BĐ_Công ty cổ phần vận tải và thương mại Phú Trọng phải chịu 8.371.001đồng.

- NĐ_Công ty cổ phần hàng hải Sang Sang phải chịu án phí là 2.000.000 đồng nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 3.062.240 đồng theo biên lai số 06577 ngày 17/01/2012 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X, Tp. HCM. Hoàn trả cho NĐ_Công ty cổ phần hàng hải Sang Sang số tiền chênh lệch 1.062.240 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án đươc qui định tại Điều 30 Luậtt thi hành án dân sự.

3. Quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

 

 

Tên bản án

Bản án số: 262/2012/KDTM- ST Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

Số hiệu 262/2012/KDTM- ST Ngày xét xử 06/12/2012
Bình luận án