TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TOÀ KINH TẾ

 

Quyết định giám đốc thẩm Số: 69/2014/KDTM-GĐT

Ngày: 26/12/2014

V/v: “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

 

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ KINH TẾ - TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

 

Ngày 26 tháng 12 năm 2014, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng xây dựng”, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

NĐ_Công ty cổ phần S.C.D,

Có trụ sở tại 108 LĐT, phường TQ, quận TP, thành phố HCM;

Do ông Trần Sông Phương - Chủ tịch Hội đồng quản trị làm đại diện theo pháp luật.

 

Bị đơn:

BĐ_Ngân hàng Hưng Việt,

Có trụ sở tại số 2, LH, quận BĐ, thành phố HN;

Do bà Ngô Thị Ngọc Tuyết, Phó giám đốc Chi nhánh BĐ_Ngân hàng Hưng Việt BT làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 12/9/2011.

NHẬN THẤY:

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 24/3/2010 của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thì thấy:

Ngày 20/5/2007, NĐ_Công ty cổ phần S.C.D (gọi tắt là NĐ_Công ty S.C.D) trúng thầu thi công công trình cải tạo mở rộng trụ sở làm việc của BĐ_Ngân hàng Hưng Việt - Chi nhánh BT. Ngày 04/6/2007, NĐ_Công ty S.C.D (Bên B) và Ban quản lý dự án Chi nhánh BĐ_Ngân hàng Hưng Việt BT (gọi tắt là Ban quản lý dự án Ngân hàng BT - BênA) ký Hợp đồng kinh tế số 310/HĐ-XD. Theo hợp đồng (tóm tắt nội dung có liên quan đến tranh chấp), Bên A giao cho Bên B thi công Công trình: Cải tạo mở rộng trụ sở làm việc của. Chi nhánh BĐ_Ngân hàng Hưng Việt BT với giá trị hợp đồng khoán gọn là 3.330.000.000 đồng. Giá trị hợp đồng trên có thể được điều chỉnh trong các trường hợp: Bổ sung, điều chỉnh khối lượng thực hiện so với hợp đồng; Nhà nước thay đổi chính sách: thay đổi tiền lưong, giá nguyên vật liệu...; Trường hợp bất khả kháng...Trong hợp đồng, các bên thỏa thuận: “Bên B có trách nhiệm lập hồ sơ thanh toán, quyết toán khối lương công việc đã thực hiện. Bên A phải thanh toán cho nhà thầu theo khối lương công việc được nghiệm thu khi Tổng giám đốc   BĐ_Ngân

hàng Hưng Việt duyệt quyết toán khối lượng công việc...”. Trong quá trình thi công, do phát sinh thêm khối lượng hạng mục nên hai bên tiếp tục ký Phụ lục hợp đồng số 439/PLHĐ-XD ngày 17/6/2008 với giá trị phụ lục tạm tính là 2.634.625.473 đồng. Tổng giá trị hợp đồng và phụ lục hợp đồng tạm tính là 5.964.625.473 đồng.

Quá trình thực hiện hợp đồng, NĐ_Công ty S.C.D đã được Ban quản lý dự án Ngân hàng BT tạm ứng nhiều đợt với tổng số tiền là 5.438.674.000 đồng. Ngày 15/7/2008, các bên ký Biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình để đưa vào sử dụng, không yêu cầu sửa chữa, hoàn thiện bổ sung. Cùng ngày 15/7/2008, các bên ký Bảng tổng quyết toán giá trị công trình với tổng giá trị quyết toán công trình (làm tròn) là 6.155.440.000 đồng. Toàn bộ hồ sơ đã được gửi cho BĐ_Ngân hàng Hưng Việt xin phê duyệt.

Thực hiện yêu cầu của BĐ_Ngân hàng Hưng Việt, Ban quản lý dự án Ngân hàng BT thuê Công ty TNHH kiểm toán và dịch vụ tin học thành phố HCM xác định giá trị quyết toán chi phí xây lắp công trình.

Ngày 19/12/2008, Công ty TNHH kiểm toán và dịch vụ tin học thành phố HCM có Báo cáo kiểm toán số 1108657/AISC-XD xác định giá trị quyết toán chi phí xây lắp công trình trụ sở làm việc của BĐ_Ngân hàng Hưng Việt chi nhánh BT là 5.964.705.453 đồng.

NĐ_Công ty S.C.D và Ban quản lý dự án Ngân hàng BT đồng ý với kết quả kiểm toán, và gửi hồ sơ quyết toán lần hai với tổng số tiền là 5.964.705.453 đồng.

Ngày 31/12/2009, Chủ tịch Hội đồng quản trị BĐ_Ngân hàng Hưng Việt có Quyết định số 1761/QĐ/HĐQT-XDCB phê duyệt quyết toán công trình trụ sở làm việc của BĐ_Ngân hàng Hưng Việt Chi nhánh BT với tổng giá trị quyết toán chi phí xây lắp là 5.589.636.720 đồng (cắt giảm so với giá trị quyết toán 375.068.733 đồng).

Không đồng ý với quyết định phê duyệt quyết toán, nên NĐ_Công ty S.C.D khỏi kiện yêu cầu Tòa án buộc Ban quản lý dự án Ngân hàng BT phải thanh toán số tiền là 526.031.453 đồng (Kết quả kiểm toán - số tiền tạm ứng) và lãi chậm thanh toán tính từ ngày 19/12/2008  (là ngày kiểm toán thông báo cho NĐ_Công ty S.C.D con số cuối cùng) đến ngày xét xử.

BĐ_Ngân hàng Hưng Việt chỉ đồng ý thanh toán số tiền còn lại là 150.962.720 đồng (Số tiền quyết toán được phê duyệt theo Quyết định số 1761/QĐ/HĐQT-XDCB ngày 31/12/2009 của Chủ tịch Hội đồng quản trị BĐ_Ngân hàng Hưng Việt chưa thi hành xong khoản tiền nói trên, thì hàng tháng BĐ_Ngân hàng Hưng Việt còn phải trả tiền lãi theo mức lãi suất nợ quả hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn có quyết đinh về án phí và về việc thi hành án.

Sau khi xét xử phúc thẩm, NĐ_Công ty cổ phần S.C.D có đon đề nghị xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 56/2014/KN-KDTM ngày 12/9/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Kháng nghị Bản án kinh doanh, thưong mại phúc thẩm số 1229/2011/KDTM-PT ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố HCM; Đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 1229/2011/KDTM - PT ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố HCM và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 12/2011/KDTM-ST ngày 27/7/2011 của Tòa án nhân dân quận BT, thành phố HCM; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận BT, thành phố HCM xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Công trình cải tạo, mở rộng trụ sở làm việc của BĐ_Ngân hàng Hưng Việt - Chi nhánh BT đã được nghiệm thu và đưa vào sử dụng, các bên không tranh chấp về khối lượng, chất lượng công trình, mà chỉ tranh chấp về giá trị thanh toán.

Cùng ngày nghiệm thu hoàn thành công trình (15/7/2008), NĐ_Công ty S.C.D và Ban quản lý dự án Ngân hàng BT đã ký Bảng tổng quyết toán công trình với tổng giá trị xin phê duyệt quyết toán là 6.155.440.000 đồng. Hồ sơ quyết toán đã được gửi BĐ_Ngân hàng Hưng Việt để phê duyệt. Sau khi có kết quả kiểm toán, NĐ_Công ty S.C.D và Ban quản lý dự án Ngân hàng Binh Tân đều đồng ý với kết quả kiểm toán và gửi hồ sơ xin phê duyệt giá trị quyêt toán chi phí xây lắp công trình theo như kết quả kiểm toán là 5.964.705.453 đồng. Tuy nhiên, Chủ tịch Hội đồng quản trị BĐ_Ngân hàng Hưng Việt chỉ phê duyệt quyết toán giá trị công trình với tổng chi phí xây lắp là 5.589.636.720 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Báo cáo kết quả kiểm toán ngày 19/12/2008 của Công ty TNHH kiểm toán và dịch vụ tin học thành phố HCM để chấp nhận yêu cầu của NĐ_Công ty S.C.D, buộc Ban quản lý dự án Ngân hàng BT thanh toán cho NĐ_Công ty S.C.D 526.031.453 đồng tiền nợ gốc và 185.031.536 đồng tiền nợ lãi do chậm thanh toán; còn Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Quyết định số 1761/QĐ/HĐQT-XDCB ngày 31/12/2009 của Chủ tịch Hội đồng quản trị BĐ_Ngân hàng Hưng Việt về việc phê duyệt quyết toán công trình trụ sở làm việc của BĐ_Ngân hàng Hưng Việt - Chi nhánh BT để buộc BĐ_Ngân hàng Hưng Việt thanh toán cho NĐ_Công ty S.C.D 150.962.720 đồng nợ gốc và 27.173.290 đồng tiền lãi do chậm thanh toán, đều chưa đủ căn cứ vững chắc. Bởi lẽ:

Sau khi nhận được Quyết định số 1761/QĐ/HĐQT-XDCB ngày 31/12/2009 của Chủ tịch Hội đồng quản trị BĐ_Ngân hàng Hưng Việt, NĐ_Công ty S.C.D đã có đơn khiếu nại việc cắt giảm một phần chi phí xây dựng, Ban quản lý dự án Ngân hàng BT đã có Tờ trình  gửi Ban xây dựng cơ bản BĐ_Ngân hàng Hưng Việt. Ban xây dựng cơ bản BĐ_Ngân hàng Hưng Việt đã có Văn bản số 454/NHNN- XDCB ngày 26/01/2010, trong đó có nội dung: “Giao cho Giám đốc Chi nhánh BĐ_Ngân hàng Hưng Việt BT phối hợp cùng đơn vị kiếm toán (Công ty TNHH kiểm toán và dịch vụ tin học), tư vấn giám sát, đơn vị tư vấn quản lý dự án (Công ty TNHH tư vấn thiết kế đầu tư xây dụng Đinh Hoàng) làm việc với NĐ_Công ty cổ phần S.C.D về nhũng nội dung cắt giảm của Ban xây dựng cơ bản (có Báo cáo của Ban xây dụng cơ bản kèm theo)”. Theo Báo cáo ngày 25/01/2010 của Ban xây dụng cơ bản BĐ_Ngân hàng Hưng Việt về việc quyết toán Công trình xây dụng trụ sở làm việc Chi nhánh BĐ_Ngân hàng Hưng Việt BT thì có hai khoản chênh lệch lớn không được chấp nhận, cần được xem xét lại đó là: khoản bổ sung chi phí vật tư theo Thông tư số 09/2008/TT-BXD ngày 17/4/2008 của Bộ Xây dụng là 260.818.889 đồng và khoản bổ sung chi phí nhân công, máy theo Thông tư số 03/2008/TT-BXD ngày 25/01/2008 của Bộ Xây dựng là 103.152.115 đồng.

Theo trình bày của đại diện BĐ_Ngân hàng Hưng Việt thì thực hiện yêu cầu của Ban xây dựng cơ bản BĐ_Ngân hàng Hưng Việt tại Văn bản số 454/NHNo-XDCB nêu trên, Chi nhánh BĐ_Ngân hàng Hưng Việt BT đã cùng đại diện NĐ_Công ty S.C.D và Công ty TNHH kiểm toán và dịch vụ tin học thành phố HCM (không có đại diện tư vấn giám sát, đơn vị tư vấn quản lý dự án như yêu cầu của Ban xây dựng cơ bản) đã tiến hành rà soát giá trị quyết toán công trình trụ sở làm việc Chi nhánh BĐ_Ngân hàng Hưng Việt BT, nhưng NĐ_Công ty

S.C.D không ký biên bản. Đây chỉ là trình bày của đại diện Ngân hàng; NĐ_Công ty S.C.D không thừa nhận có việc tiến hành rà soát này; không có lời khai của đại diện Công ty kiểm toán. Mặt khác, Biên bản rà soát có trong hồ sơ vụ án không đề ngày, không có chữ ký của các thành viên tham gia rà soát theo trình bày của đại diện Ngân hàng. Tại phiên tòa sơ thẩm, đại điện Ngân hàng thừa nhận Biên bản rà soát này không có giá trị pháp lý.

Như vậy, BĐ_Ngân hàng Hưng Việt - Chi nhánh BT chưa thực hiện đúng ý kiến chỉ đạo của BĐ_Ngân hàng Hưng Việt; các bên chưa thống nhất được với nhau về các khoản chi phí bị cắt giảm dẫn đến tranh chấp. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cũng không

 

xem xét các khoản bị cắt giảm này có đúng pháp luật không mà đã chấp nhận toàn bộ hoặc một phần yêu cầu của NĐ_Công ty S.C.D đều chưa đủ căn cứ vững chắc để giải quyết vụ án.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định tranh chấp giữa NĐ_Công ty S.C.D với BĐ_Ngân hàng Hưng Việt là tranh chấp về hợp đồng dịch vụ và áp dụng các Điều 85, Điều 87, Điều 306  Luật Thương mại năm 2005 để giải quyết vụ án là không đúng pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm xác định quan hệ tranh chấp của vụ án này là tranh chấp về hợp đồng xây dựng và áp dụng các quy định của pháp luật về xây dựng để giải quyết là đúng.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định Ban quản lý dự án Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triên nông thôn BT là bị đơn của vụ án này là không đúng; bị đơn của vụ án này là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông Việt Nam như Tòa án cấp phúc thẩm xác định là đúng.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào Khoản 2 Điều 291; Khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011),

QUYẾT ĐỊNH:

1- Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 1229/2011/KDTM-PT ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố HCM và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 12/2011/KDTM-ST ngày 27/7/2011 của Tòa án nhân dân quận BT, thành phố HCM;

2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố HCM xét xử sơ thẩm lại theo  quy định của pháp luật


 
Tên bản án

Bản án số 69/2014/KDTM-GĐT về tranh chấp hợp đồng xây dựng

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English