TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Số: 91/2006/KDTM-ST

Ngày: 24/01/2006

v/v: Tranh chấp  kinh doanh thương mại về hợp đồng tổ chức thực hiện việc quảng cáo

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                                                                         

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM: 

1. Ông Nguyễn Thế Nhật Quang - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa 
2. Bà Trần Thị Yến - Hội thẩm nhân dân

3. Bà Nguyễn Hà Cẩm Tú.- Hội thẩm nhân dân

Bà Nguyễn Thị Bình Dương – Cán bộ Tòa án nhân dân Tp. HCM - Thư ký phiên toà

Ngày 24 tháng 01 năm 2006 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 114/2005/TLST-KDTM ngày 10 tháng 05 năm 2005 tranh chấp “kinh doanh thương mại về hợp đồng tổ chức thực hiện việc quảng cáo “ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 310/QĐXX-ST ngày 03 tháng 1 năm 2006 giữa các đương sự :

NGUYÊN ĐƠN:
Công ty TNHH Quảng Cáo Mai Ngô

Trụ sở : 353 Nguyễn Trọng Tuyển Phường 1 Quận Tân Bình TP.Hồ chí Minh

Đại diện ủy quyền : Ông Nguyễn Hoài Tú

Địa chỉ cư trú : 221B Phan văn Trị Phường 11 Quận Bình Thạnh

(Văn bản uỷ quyền ngày 10/4/2005)

BỊ ĐƠN: 
Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát CLD

Địa chỉ : Ap Hoà Lân, xã Thuận Giao huyện Thuận An Tỉnh Bình Dương

Đại diện uỷ quyền : bà Nguyễn Trung Anh – Phó Giám đốc

(Văn bản uỷ quyền 18/5/2005) Có yêu cầu vắng mặt.

NHẬN THẤY

Trong đơn khởi kiện ngày 12 tháng 04 năm 2005 và các lời trình bày tiếp theo của nguyên đơn là Công ty TNHH Quảng cáo có ông Nguyễn Hoài Tú - đại diện thì giữa nguyên đơn và bị đơn là Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát CLD có giao kết kinh doanh thương mại về việc tổ chức quảng cáo chương trình “ Lý Đức và Vodik hướng về giấc mơ huy chương vàng” nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm mới Vodik tới người tiêu dùng tại 10 tỉnh, thành phía Bắc, hai bên ký Hợp đồng vào ngày 19/4/2004 , với tổng giá trị là 568.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng do có phát sinh 2 đợt và cộng với Thuế VAT thì bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn là 1.078.046.000 đồng, tuy nhiên, bị đơn chỉ thanh toán cho nguyên đơn là 612.960.000 đồng, hiện còn nợ chưa thanh toán là 572.891.330 đồng . Nay do bị đơn vi phạm nghĩa vụ không thanh tóan tiền phát sinh trong hợp đồng trên nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn thanh tóan tiền nêu trên trong hạn sớm nhất.

Tại văn bản tự khai ngày 30/5/2005 và tại các biên bản hòa giải tiếp theo bị đơn là Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát CLD xác nhận ngày 19/4/1004 có ký hợp đồng kinh tế số 17/HĐKT/VM-2004 với nguyên đơn với nội dung và tổng giá trị hợp đồng như nguyên đơn trình bày. Ngày 19/5/2004, hai bên ký tiếp phụ lục hợp đồng với trị giá là 62.800.000 đồng sau khi thực hiện xong chương trình, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn toàn bộ giá trị hợp đồng là 612.960.000 đồng. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán 2 đợt phát sinh là không hợp lý nên không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết qủa hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :

Về thẩm quyền giải quyết : Căn cứ vào hợp đồng kinh tế số 17/HĐKT ngày 19/4/2004 và Phụ lục hợp đồng và Biên bản nghiệm thu và thanh toán đợt 1 ngày 12/6/2004 mà nguyên đơn làm cơ sở khởi kiện thể hiện giữa Công ty TNHH quảng cáo Mai Ngô và Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát CLD có giao kết về kinh doanh thương mại, có mục đích lợi nhuận và hiện nay bị đơn có trụ sở tại Tỉnh Bình Dương tuy nhiên do hai bên thoả thuận trong hợp đồng khi phát sinh tranh chấp sẽ do Tòa kinh tế Tòa án nhân dân TP.Hồ chí Minh giải quyết, vì vậy căn cứ vào điều 29 và 35 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh theo thủ tục sơ thẩm.

Về thời hiệu khởi kiện : Ngày 12/4/2005 Công ty TNHH quảng cáo Mai Ngô đã khởi kiện Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát CLD đến TAND.TP.Hồ chí Minh, do đó căn cứ theo điều 242 Luật thương mại thì nguyên đơn đã khởi kiện trong thời hiệu nên được chấp nhận giải quyết.

Về tố tụng : Xét bị đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, do đó căn cứ vào khoản 1 điều 202 Bộ luật tố tụng Dân sự HĐXX quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung : Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi bị đơn thanh toán tiền thuê dịch vụ tổ chức và thực hiện quảng cáo chương trình “ Lý Đức và Vodik hướng về giấc mơ huy chương vàng” là 510.046.000 đồng HĐXX nhận thấy như sau :

Xét, tổng số tiền trên theo nguyên đơn trình bày là phần tiền phát sinh của Hợp đồng số 17/HĐKT ngày 19/4/2004 gồm hai đợt, cụ thể : đợt 1 là 220.000.000 đồng và đợt 2 là 290.046.000 đồng. Căn cứ vào lời trình bày của bị đơn tại biên bản hòa giải ngày 26/7/2005 xác nhận số tiền phát sinh đợt 1 hai bên đã có đối chiếu công nợ, lời khai này phù hợp với nội dung thỏa thuận trong biên bản nghiệm thu và thanh toán đợt 1 lập ngày 12/6/2004 giữa 2 công ty, trong đó thể hiện, tổng giá trị hợp đồng số 17/HĐKT ngày 19/4/2004 ( chưa bao gồm thuế VAT ) là 568.000.000 đồng, các hạng mục phát sinh đợt 1 ( chưa bao gồm thuế VAT) là 220.000.000 đồng, phụ lục hợp đồng Cẩm Ly là 103.680.000 đồng, như vậy, số tiền phát sinh đợt 1, bị đơn đã thừa nhận nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.

Xét, tại biên bản hoà giải không thành ngày 26/7/2005 bị đơn yêu cầu nguyên đơn giải thích thêm một số vấn đề trong bảng đối chiếu đợt 1 trong buổi hòa giải tiếp theo ngày 8/8/2005 để cùng đối chiếu công nợ nhưng phía bị đơn không tham gia hoà giải mặc dù đã được Tòa thông báo và triệu tập nhiều lần vì vậy không thể chấp nhận yêu cầu trên của bị đơn.

Xét, ý kiến trình bày của bị đơn trong Đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 18/1/2006 cho rằng các hoá đơn tài chính không có ngày tháng, vi phạm nguyên tắc tài chính Nhà nước và các khoản kê khai của hoá đơn phát sinh từ 11/5/2004 đến 28/7/2004 là không hợp lý vì vào các thời điểm này hai bên không có tổ chức chường trình giao lưu tại các địa điểm như nguyên đơn kê khai, HĐXX nhận thấy trong các hạng mục được tổng hợp phát sinh đợt 1 mà nguyên đơn đòi thanh toán là 220.000.000 đồng thể hiện không có các số tiền như bị đơn đã nêu ra, vì vậy, không có cơ sở chấp nhận .

Xét, về số tiền phát sinh đợt 2 là 290.046.000 đồng tại phiên Tòa hôm nay nguyên đơn yêu cầu được thu hồi 50% là 145.023.000 đồng và chứng minh việc bị đơn đã đối chiếu thể hiện qua các bảng nghiệm thu hạng mục có chữ ký của đại diện Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát CLD là ông Sung Che Heng để yêu cầu bị đơn có trách nhiệm thanh toán chi phí này là không có cơ sở để chấp nhận, bởi lẽ, bị đơn không thừa nhận việc ông Sung Che Heng là người đại diện khi ký vào các biên bản nghiệm thu trên, mặt khác, phía nguyên đơn cũng không xuất trình được chứng cứ chứng minh cho việc ông Sung Che Heng được Tổng giám đốc Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát CLD uỷ quyền thực hiện việc nghiệm thu các hạng mục phát sinh của đợt 2, ngoài ra, việc cung cấp chứng cứ về địa chỉ cư trú hiện nay của ông Sung Che Heng, hai bên đều không nắm rõ, do đó, không thể triệu tập ông Heng tham gia tố tụng trong vụ án này.Do đó, nghĩ nên bác yêu cầu này của nguyên đơn.

Xét, về thời hạn thanh toán phía nguyên đơn yêu cầu được thu hồi tiền hàng trên trong hạn 30 ngày kể từ khi án có hiệu lực là phù hợp pháp luật vì vậy nghĩ nên chấp nhận. Giao nhận tiền tại cơ quan Thi hành án Dân sự TP.Hồ chí Minh.

Về án phí : Bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch trên phần phải trả nợ cho nguyên đơn ; nguyên đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm trên phần yêu cầu không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

+ Căn cứ điều 210 Bộ Luật tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2005; điều 199, 205, 206, 241 Luật thương mại ; Khỏan 2 điều 15, khoản 1 điều 19 Nghị định 70/CP của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí của Tòa án ngày 12 tháng 06 năm 1997; Khỏan 1 phần III thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19 tháng 6 năm 1997 của TANDTC – VKSNDTC- BTP- BTC hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản, tuyên xử :

- Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn :

- Buộc Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát CLD có trách nhiệm thanh toán số tiền phát sinh đợt 1 theo hợp đồng kinh tế số 17 ngày 19/4/2004 cho Công ty TNHH quảng cáo Mai Ngô là 220.000.000 đồng.

- Thi hành trong hạn 30 ngày sau khi án có hiệu lực pháp luật tại cơ quan Thi hành án dân sự TP.Hồ chí Minh.

- Bác yêu cầu của Công ty TNHH quảng cáo Mai Ngô đòi Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát CLD thanh toán 50 % số tiền phát sinh đợt 2 theo hợp đồng kinh tế số số 17 ngày 19/4/2004 cho Công ty TNHH quảng cáo Mai Ngô là 145.023.000 đồng .

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn chưa thi hành xong khỏan tiền trên thì hàng tháng bị đơn còn phải chịu lãi suất theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

· Về án phí kinh tế sơ thẩm : Công ty TNHH quảng cáo Mai Ngô phải chịu là 6.800.920 đồng nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự TP.HCM, được cấn trừ vào số tiền tạm nộp án phí là 9.725.913 đồng theo Biên lai số 4797 ngày 05/5/05 của cơ quan Thi hành án dân sự TP.HCM, được nhận lại 2.924.993 đồng . Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát CLD chịu án phí kinh tế sơ thẩm là 9.600.000 đồng, nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự TP.Hồ chí Minh.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

 

Tên bản án

Bản án số 91/2006/KDTM-ST Tranh chấp  kinh doanh thương mại về hợp đồng tổ chức thực hiện việc quảng cáo

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English