TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11

 
   
Bản án số: 112/2012/HSST

Ngày: 14/9/2012

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc





NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Với thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:  Ông Phạm Công Toại

Các Hội thẩm nhân dân:

1. Bà Dương Thị Nguyệt

2. Ông Huỳnh Anh Vũ

Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Phúc

Cán bộ Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 tham gia phiên tòa:

Ông Lê Trung Tuấn - Kiểm sát viên.

Trong các ngày 13, 14 tháng 9 năm 2012, tại phòng xử C trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11 xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 90/2012/HSST ngày 24 tháng 7 năm 2012 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phan Văn Nhựt; giới tính: nam; sinh năm: 1987, tại tỉnh Đồng Tháp; quốc tịch: Việt Nam; đăng ký thường trú: ấp Hòa Bình, xã Hòa Tân, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp; tạm trú: 184/5A đường Lê Đình Cẩn, phường Tân Tạo, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm công; trình độ học vấn: 8/12; con ông Phan Văn Đựng và bà Nguyễn Thị Hai; tiền án - tiền sự: không có; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày: 28/11/2011;

(Có mặt).

2. Họ và tên: Lê Minh Phương; tên gọi khác: Bé Tư; giới tính: nam; sinh năm: 1990, tại Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; đăng ký thường trú: 205/18C/18K đường Tân Hòa Đông, Phường 14, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 6/12; con ông Lê Thanh Dũng và bà Phạm Thị Bích Lan; tiền án - tiền sự: không có; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày: 29/11/2011;

(Có mặt).

3. Họ và tên: Châu Hồng Anh; tên gọi khác: Tý Địa; giới tính: nam; sinh năm: 1987, tại tỉnh Trà Vinh; quốc tịch: Việt Nam; đăng ký thường trú: 564/1/2 đường Hương Lộ 2, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm công; trình độ học vấn: 8/12; con ông Châu Cẩm Bình và bà Diệp Bích Phượng; tiền án - tiền sự: không có; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày: 29/11/2011;

(Có mặt).

Người bị hại:

Bà Vạn Thị Kim Thanh, sinh năm: 1971;

Đăng ký thường trú: 207/11/2 đường Lạc Long Quân, Phường 03, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh;

Người đại diện theo ủy quyền của bà Thanh:

Ông Phạm Ngọc Thanh, sinh năm: 1967;

Đăng ký thường trú: 207/11/2 đường Lạc Long Quân, Phường 03, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh;

(Có mặt ngày 13/9/2012, vắng mặt ngày 14/9/2012).

Người bào chữa cho bị cáo Lê Minh Phương;

Ông Hà Ngọc Tuyền - Luật sư của Văn phòng Luật sư Hà Tuyền, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh;

(Có mặt).

 

NHẬN THẤY

 

Các bị cáo Phan Văn Nhựt, Lê Minh Phương và Châu Hồng Anh bị Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Do nắm được thói quen đi lại và biết bà Vạn Thị Kim Thanh thường mang theo nhiều tài sản khi về nhà nên đối tượng Lê Nhật Trường đã rủ các bị cáo Nhựt, Phương, Anh và một đối tượng tên Minh (chưa rõ lai lịch) cùng nhau chiếm đoạt tài sản của bà Thanh và tất cả đã đồng ý. Trưa ngày 28/11/2011, cả bọn gặp nhau để bàn việc chiếm đoạt tài sản và đã thống nhất Minh chở bị cáo Nhựt trực tiếp thực hiện việc chiếm đoạt tài sản, bị cáo Anh chở bị cáo Phương giữ vai trò ngăn cản khi bị truy đuổi, còn Trường thì đứng gần đó cảnh giới và tiếp ứng khi cần thiết. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, tại hẻm số 207 đường Lạc Long Quân, Phường 03, Quận 11 khi thấy bà Thanh đi bộ từ ngoài đầu hẻm vào, bị cáo Nhựt từ trong quán cà phê chạy ra dùng tay giật chiếc giỏ xách bà Thanh đang cầm, bà Thanh giữ chặt giỏ xách, giằng co lại, đồng thời tri hô lên. Bị cáo Nhựt dùng tay kéo mạnh, làm đứt một quai giỏ xách và các cọc tiền trong giỏ rơi ra ngoài. Nghe tiếng tri hô và phát hiện sự việc, quần chúng nhân dân đã hỗ trợ, bắt giữ được bị cáo Nhựt. Lúc này, bị cáo Anh chở bị cáo Phương đến gần định giải vây, nhưng thấy có nhiều người xung quanh nên bỏ chạy về nhà. Còn các đối tượng Trường, Minh khi thấy bị cáo Nhựt bị bắt đã bỏ chạy trước. Sau khi chở bị cáo Phương về nhà, bị cáo Anh quay lại trụ sở Công an Phường 03, Quận 11 để nắm tình hình thì bị quần chúng nhân dân phát hiện nghi vấn, nên báo cho lực lượng công an tạm giữ bị cáo để làm rõ. Qua điều tra, cơ quan công an đã bắt được bị cáo Phương vào ngày 29/11/2011.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phan Văn Nhựt, Lê Minh Phương và Châu Hồng Anh về hành vi chiếm đoạt tài sản. Tại cơ quan điều tra, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như trên. Tài sản mà các bị cáo cùng nhau chiếm đoạt của người bị hại là một chiếc túi xách, bên trong có số tiền là 493.350.000 đồng, trong quá trình giằng co giữa bị cáo Nhựt và bà Thanh bị rơi mất số tiền 18.800.000 đồng.

Vật chứng, tài sản thu giữ trong vụ án gồm:

+ 01 chiếc túi xách, bên trong còn số tiền 474.550.000 đồng là tài sản bị chiếm đoạt.

+ 01 điện thoại di động Nokia 1208 và số tiền 100.000 đồng thu giữ của bị cáo Nhựt.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia E73 thu giữ của bị cáo Phương.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia C7, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202, 01 xe máy mang biển số 59K1-090.05 thu giữ của bị cáo Anh.

Trong quá trình điều tra, khi khám xét nơi ở của bị cáo Phương, Cơ quan điều tra còn thu giữ được nhiều tài sản, tài liệu, đồ vật khác như:

+ 01 giỏ xách màu đen hiệu Mr Vui bên trong có nhiều giấy tờ photo, 03 đồ sạc pin, 03 thẻ nhớ USB, 03 bộ tai nghe điện thoại. Qua xác minh, xác định được các tài sản, giấy tờ này là của anh Nguyễn Minh Thiện - sinh năm: 1986; cư trú: 557 đường Lê Văn Lương, phường Tân Phong, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo Phương khai số tài sản, giấy tờ này là do tên Minh tự mình chiếm đoạt được, sau khi phát hiện không có tài sản đáng giá tên Minh đã bỏ lại tại nhà bị cáo. Anh Thiện khai bị cướp giật các tài sản này tại ngã ba đường Hương Lộ 2 - Đất Mới (thuộc địa bàn quận Bình Tân) vào khoảng tháng 9,10/2011, nghĩ các tài sản này không có giá trị nên không trình báo với cơ quan công an. Cơ quan điều tra đã cho anh Thiện nhận dạng các đối tượng đã chiếm đoạt tài sản, nhưng anh Thiện không nhận dạng được. Cơ quan điều tra đã giao trả lại các giấy tờ, tài sản này cho anh Thiện đồng thời cũng đã có văn bản thông báo cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân để thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

+ 01 giỏ xách màu nâu hiệu CANDO, 01 bóp xách tay nữ hiệu KIWSH-SAKURA bên trong có 01 đoạn dây chuyền màu trắng bị đứt, 01 mặt dây chuyền, 01 đôi bông tay, 01 chiếc nhẫn đính hột đá. Qua giám định, số nữ trang vừa nêu là vàng giả. Bị cáo Phương khai nhận các tài sản này là của người bạn gái tên Nị (không rõ lai lịch).

+ 01 điện thoại di động hiệu Vodaphone 1588 màu đen và 01 điện thoại di động hiệu ZTE màu vàng bạc. Bị cáo Phương khai số tài sản này là của bà Phạm Thị Bích Lan, tuy nhiên bà Lan phủ nhận việc sở hữu hai chiếc điện thoại này.

Ngoài ra, tại cơ quan điều tra, các bị cáo Nhựt, Phương, Anh khai nhận đã cùng với một số đối tượng tên Minh, Khoa, Út lùn thực hiện thành công một số vụ chiếm đoạt tài sản trên địa bàn các quận Bình Tân, quận Tân Bình, Quận 12 -  Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan điều tra đã xác minh, nhưng theo ghi nhận của công an địa phương những nơi mà các bị cáo khai nhận đã thực hiện chiếm đoạt tài sản, thì không có nạn nhân nào đến trình báo bị chiếm đoạt tài sản. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã có công văn đề nghị Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh đăng tin tìm người bị hại, đồng thời thông báo cho các cơ quan điều tra có liên quan.

Bản cáo trạng số 98/KSĐT-XXHS ngày 19 tháng 7 năm 2012, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã truy tố các bị cáo Phan Văn Nhựt, Lê Minh Phương và Châu Hồng Anh tội danh “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 136 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa

- Bị cáo Nhựt thừa nhận hành vi phạm tội của mình, nhưng lại phủ nhận việc có mặt của các bị cáo Phương, Anh khi thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Còn bị cáo Phương và bị cáo Anh thì thừa nhận có tham gia vào quá trình bàn bạc việc chiếm đoạt tài sản do đối tượng Lê Nhật Trường tổ chức, nhưng không thừa nhận có tham gia vào quá trình thực hiện, mà cho rằng vào thời điểm đó các bị cáo đang ở nhà. Tuy nhiên, các bị cáo đều đồng ý liên đới bồi thường thiệt hại số tiền 18.800.000 đồng theo như người bị hại yêu cầu và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Nhựt từ 10 - 12 năm tù, bị cáo Phương từ 10 - 12 năm tù, bị cáo Anh từ 9 - 11 năm tù; đồng thời ghi nhận việc các bị cáo đồng ý liên đới bồi thường số tiền 18.800.000 đồng cho người bị hại, xử lý vật chứng theo qui định.

- Người bào chữa cho bị cáo Phương trình bày:

·        Tuy bị cáo Phương có tham gia vào quá trình bàn bạc và đồng ý thực hiện việc chiếm đoạt tài sản, nhưng bị cáo tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội, vì sau khi đồng ý thì bị cáo và bị cáo Anh đã về nhà, không đến hiện trường như đã bàn.

·        Tại phiên tòa, bị cáo Nhựt khai lúc bị bắt thì bị người dân đánh ngất xỉu, nên lời khai của bị cáo Nhựt về việc thấy bị cáo Phương, bị cáo Anh xông đến định giải vây là không chính xác.

·        Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa mâu thuẫn nhau. Mặt khác, những người thân của bị cáo Anh có thể làm chứng việc bị cáo Phương đang ở nhà bị cáo Anh vào thời điểm bị cáo Nhựt thực hiện việc chiếm đoạt tài sản.

Từ những lý lẽ trên, người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung, làm rõ những chứng cứ ngoại phạm của bị cáo Phương.

- Người đại diện của người bị hại trình bày: yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại số tiền bị thất thoát là 18.800.000 đồng.

- Viện kiểm sát đối đáp phần trình bày của người bào chữa: việc các bị cáo thay đổi lời khai tại phiên tòa chỉ là sự phản cung. Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra hoàn toàn phù hợp với nhau, đủ cơ sở để kết luận các bị cáo phạm tội “Cướp giật tài sản”. Do đó, vẫn giữ quan điểm truy tố, không đồng ý việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên; các bị cáo; người bào chữa; người đại diện của người bị hại;

 

XÉT THẤY

 

Trong suốt quá trình điều tra, các bị cáo Nhựt, Phương, Anh đều thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận vai trò cụ thể của mình trong việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bà Vạn Thị Kim Thanh. Điều này thể hiện qua các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung và các bản tự khai của các bị cáo Nhựt, Phương. Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, các bị cáo Phương, Anh hoàn toàn không có lời khai, ý kiến nào về việc kêu oan, trình bày việc ngoại phạm của các bị cáo. Hơn nữa, trong quá trình điều tra, bị cáo Phương cũng đã có điều kiện tiếp xúc với người bào chữa cho mình, kể cả người bào chữa tham gia chứng kiến việc lấy lời khai của bị cáo nhưng bị cáo cũng không hề có sự phản kháng về việc quy kết hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, việc các bị cáo cho rằng trong quá trình điều tra đã bị ép cung, lời khai không đúng sự thật là không có căn cứ và yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung của người bào chữa cho bị cáo Phương không được chấp nhận.

Những lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với các chứng khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ cơ sở để xác định: trưa ngày 28/11/2011, sau khi bàn bạc, các bị cáo Nhựt, Phương, Anh cùng với Lê Nhật Trường và đối tượng tên Minh (chưa rõ lai lịch) đã thống nhất ý chí, cùng nhau chiếm đoạt tài sản của bà Vạn Thị Kim Thanh. Và đã phân công vai trò cụ thể của từng người là, đối tượng Minh chở bị cáo Nhựt trực tiếp thực hiện việc chiếm đoạt tải sản, bị cáo Anh chở bị cáo Phương chạy sau xe đối tượng Minh để ngăn cản khi bị truy đuổi, còn đối tượng Trường thì đứng sau cùng để cảnh giới và tiếp ứng khi cần thiết. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, tại đầu hẻm số 207 đường Lạc Long Quân, Phường 03, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, khi bà Thanh đi bộ từ ngoài đường vào hẻm thì bị cáo Nhựt từ trong quán cà phê ngồi chờ sẵn chạy ra dùng tay giật lấy chiếc giỏ xách mà bà Thanh đang cầm trên tay. Nhưng bà Thanh đã kịp thời giằng co lại, đồng thời tri hô lên và đã được quần chúng nhân dân hỗ trợ bắt giữ được bị cáo Nhựt giải giao cho cơ quan công an. Qua đấu tranh, khai thác, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã bắt giữ thêm được bị cáo Anh và bị cáo Phương. Đối tượng Lê Nhật Trường - sinh ngày: 26/8/1987; đăng ký thường trú: 62 ấp Hòa Thành, xã Vĩnh Bình Nam, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang - hiện đã bỏ trốn, còn đối tượng Minh thì chưa xác định được lai lịch; cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đối với Lê Nhật Trường và tiếp tục xác minh đối với tên Minh, khi nào bắt được và làm rõ sẽ xử lý sau.

Các bị cáo bằng thủ đoạn công khai, bất ngờ giật lấy tài sản của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát nhưng đã bị bắt giữ. Hành vi này đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 136 của Bộ luật Hình sự. Tài sản mà các bị cáo cùng nhau chiếm đoạt là một chiếc túi xách, bên trong có số tiền 493.350.000 (bốn trăm chín mươi ba triệu ba trăm năm mươi nghìn) đồng. Dù các bị cáo không biết rõ số tiền trong chiếc giỏ xách dự định chiếm đoạt, nhưng các bị cáo đều có ý thức trong giỏ “có số tiền rất lớn”; hơn nữa đều có ý thức bỏ mặc hậu quả xảy ra, đó là chiếm đoạt toàn bộ tài sản trong chiếc túi xách của người bị hại. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố các bị cáo tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm b khoản 3 Điều 136 của Bộ luật Hình sự năm 1999 là đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác; bản thân các bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp. Việc thực hiện hành vi phạm tội giữa ban ngày, ở nơi đông người cho thấy hành vi của các bị cáo là vô cùng liều lĩnh và táo bạo. Mặt khác, bị cáo Phương trong thời gian trốn lệnh truy nã của Cơ quan cảnh sát điều tra của Công an Thành phố Hồ Chí Minh về tội “Giết người”, lại tiếp tục phạm tội khác, thể hiện tính xem thường pháp luật, chưa biết hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng trị và giáo dục các bị cáo, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe, phòng ngừa chung và trong đó, có xem xét đến vai trò cụ thể của từng bị cáo khi phạm tội. Còn hành vi chiếm đoạt tài sản của các bị cáo trên các quận Bình Tân, quận Tân Bình và Quận 12 không nằm trong phạm vi xét xử của vụ án này, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: trước khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đã có bàn tính kỹ lưỡng, phân công vai trò cụ thể của từng người; trong đó, Lê Nhật Trường là người tổ chức, thực hiện việc cảnh giới, bị cáo Nhựt là trực tiếp thực hiện việc chiếm đoạt tài sản, đối tượng Minh là người chở bị cáo Nhựt tẩu thoát, còn các bị cáo Phương và Anh là người ngăn cản khi bị truy đuổi. Các bị cáo đã có sự phân công, câu kết chặt chẽ trước và trong khi gây án, vì vậy các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “có tổ chức”, đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai báo quanh co, phủ nhận những lời khai trước đó. Do đó, việc đại diện Viện kiểm sát đề nghị cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” là không phù hợp. Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo không có bất cứ tình tiết giảm nhẹ nào.

Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ trong vụ án:

+  01 chiếc túi xách, bên trong còn số tiền 474.550.000 đồng là tài sản bị chiếm đoạt: cơ quan công an đã giao trả lại cho người bị hại, việc giao trả này là đúng.

 + 01 điện thoại di động Nokia 1208, 01 điện thoại di động hiệu Nokia E73, 01 điện thoại di động hiệu Nokia C7 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202 thu giữ của các bị cáo: những tài sản này không chứng minh được liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho các bị cáo.

+ 01 xe máy mang biển số 59K1-090.05 là phương tiện gây án: qua điều tra, xác định được do ông Đặng Văn Thanh - sinh năm: 1965; thường trú: 76/22B25 đường Bà Hom, Phường 13, Quận 6, TP.HCM đứng tên chủ sở hữu. Vào tháng 3/2011, anh Đặng Ngọc Sơn - con ông Thanh - đã cầm cố ở cửa hiệu cầm đồ, do quá hạn mà anh Sơn không đến thanh toán tiền, nên cửa hiệu cầm đồ đã thanh lý chiếc xe này cho bà Phạm Thị Bích Lan, sau đó bà Lan bán lại cho bị cáo Châu Hồng Anh, nhưng bị cáo Anh chưa làm thủ tục chuyển tên chủ sở hữu. Xét thấy, chiếc xe này thuộc sở hữu của bị cáo Anh và được bị cáo dùng làm phương tiện để phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

+ Số tiền 100.000 đồng thu giữ của bị cáo Nhựt: số tiền này không liên quan đến vụ án, nên trả lại cho bị cáo.

+ 01 giỏ xách màu nâu hiệu CANDO; 01 bóp xách tay nữ hiệu KIWSH-SAKURA bên trong có một đoạn dây chuyền màu trắng bị đứt, 01 mặt dây chuyền, 01 đôi bông tay, 01 chiếc nhẫn đính hột đá; 01 điện thoại di động hiệu Vodaphone 1588 màu đen và 01 điện thoại di động hiệu ZTE màu vàng bạc: các tài sản này không liên quan đến vụ án, nên giao lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 11 xử lý theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: xét thấy, các bị cáo đều đồng ý liên đới bồi thường số tiền 18.800.000 đồng theo như yêu cầu của người bị hại nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

 

QUYẾT ĐỊNH

 

Tuyên bố các bị cáo Phan Văn Nhựt, Lê Minh Phương và Châu Hồng Anh phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 136; điểm a khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đối với các bị cáo Phan Văn Nhựt, Lê Minh Phương và Châu Hồng Anh;

Xử phạt bị cáo Phan Văn Nhựt 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày 28/11/2011.

Xử phạt bị cáo Lê Minh Phương 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày 29/11/2011.

Xử phạt bị cáo Châu Hồng Anh 09 (chín) năm tù, thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày 29/11/2011.

Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009); Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003;

          - Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) xe mô tô hai bánh kiểu dáng Wave màu đỏ, biển số 59K1-090.05, số máy: JC43E-1682884, số khung: RLHJC431-128497.

- Trả lại cho bị cáo Phan Văn Nhựt: 01 (một) điện thoại di động Nokia 1208 và số tiền 100.000 (một trăm nghìn) đồng.

- Trả lại cho bị cáo Lê Minh Phương: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia E73.

+ Trả lại cho bị cáo Châu Hồng Anh: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia C7 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1202.

Giao lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 11 xử lý theo quy định của pháp luật đối với các tài sản: 01 (một) điện thoại di động hiệu Vodaphone 1588 màu đen; 01 (một) điện thoại di động hiệu ZTE màu vàng bạc; 01 (một) giỏ xách màu nâu hiệu CANDO; 01 (một) bóp xách tay nữ hiệu KIWSH-SAKURA bên trong có một đoạn dây chuyền màu trắng bị đứt, một mặt dây chuyền, một đôi bông tay và một chiếc nhẫn đính hột đá.

Áp dụng Điều 42 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009); khoản 1 Điều 605, khoản 2 Điều 606, khoản 2 Điều 305 của Bộ luật Dân sự năm 2005;

Buộc các bị cáo Phan Văn Nhựt, Lê Minh Phương và Châu Hồng Anh cùng liên đới bồi thường cho bà Vạn Thị Kim Thanh số tiền 18.800.000 (mười tám triệu tám trăm nghìn) đồng; trong đó, phần của mỗi bị cáo là 6.266.000 (sáu triệu hai trăm sáu mươi sáu nghìn) đồng. Việc bồi thường được thực hiện một lần, ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ bồi thường, thì bị cáo các bị cáo phải trả tiền lãi của số tiền còn phải bồi thường theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Áp dụng Điều 98, 99 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003; Điều 22 của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;

Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Án phí dân sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu là 313.000 (ba trăm mười ba nghìn) đồng.

          Áp dụng Điều 231, 234 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003;

          Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

                                                              TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

Nơi nhận:                                                                    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa

 

- TAND - VKSND TPHCM;

- Sở Tư pháp TPHCM;

- PC 27 - CA TPHCM;

- VKSND Quận 11;

- Công an Quận 11;

- Chi cục THADS Quận 11;                                                          

- Những người tham gia tố tụng;

- Lưu hồ sơ vụ án.

                                                                                                  

Tên bản án

Bản án số112/2012/HSST về cướp giật tài sản

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án