TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN

--------------- Quyết định giám đốc thẩm Số: 11/2008/KDTM-GĐT Ngày: 24/11/2008

V/v: “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm

tài sản”.

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa:         1. Ông Nguyễn Văn T

Các Hội thẩm nhân dân:                    2. Ông Trần Viết D

3. Bà Cao Kim H

Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Ông Nguyễn Đức K- Cán bộ Tòa án nhân dân

Quận X

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X không tham gia phiên toà.

Ngày 28/11/2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm tài sản” giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình;

Có trụ sở tại 67 HV, thị xã ĐH, tỉnh QT;

Do ông Trần Thanh Phương – Trưởng phòng Phòng nghiệp vụ, đại diện theo Giấy ủy quyền số 68/GĐ-BVQT-2008 ngày 10/1/2008 của Giám đốc Công ty.

Bị đơn:

BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10;

Có trụ sở tại 15 THĐ, thị xã ĐH, tỉnh QT;

Do ông Đặng Thành Hát - Tổng Giám đốc Công ty đại diện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX;

Có trụ sở tại Khu công nghiệp Nam ĐH, thị xã ĐH, tỉnh QT;

Do ông Nguyễn Thanh Đông - Trưởng phòng Phòng tổ chức lao động tiền lương đại diện theo Giấy ủy quyền số 10/MPT-QT-UQ ngày 7/1/2008 của Giám đốc Công ty.

NHẬN THẤY:

Theo đơn khởi kiện đề ngày 7/5/2007 và ngày 10/5/2007, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và các tài liệu do nguyên đơn xuất trình có nội dung như sau:

dựng và sản xuất gỗ MPT COSEVCO (sau đây gọi tắt

1. Ngày 30/9/2005, Công ty Xây dựng và sản xuất gỗ YMA (gọi là Công ty YMA ) có giấy yêu cầu bảo hiểm tài sản là Nhà máy gỗ YMA. Cùng ngày, NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình (bên B) và Công ty YMA  (bên A) đã kýHợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005 với những điều khoản chủ yếu sau đây (tóm tắt):

-          NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình nhận bảo hiểm tài sản Nhà máy gỗ YMA COSEVC theo các điều khoản trong đơn bảo hiểm tổn thất bất ngờ của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam; ngày, NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình (bên B) và Công ty YMA  (bên A) đã ký Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005 với những điều khoản chủ yếu sau đây (tóm tắt):

-          NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình nhận bảo hiểm tài sản Nhà máy gỗ YMA theo các điều khoản trong đơn bảo hiểm tổn thất bất ngờ của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam;

-          Công ty YMA  chỉ định Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn QT là người thụ hưởng duy nhất. Trong trường hợp tổn thất xảy ra, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn QT có quyền thanh lý tài sản theo Hợp đồng bảo hiểm này mà không cần có sự tham gia của Công ty MDI COSEVCO.

-    Tổng giá trị tài sản bảo hiểm (có danh mục chi tiết kèm theo): 343.137.198.000 đồng

-    Số tiền bảo hiểm: 343.137.198.000 đồng;

-    Địa điểm bảo hiểm: Nhà máy gỗ YMA (Khu công nghiệp Nam Đông tỉnh QT);

-    Thời hạn bảo hiểm: Từ 7h00 ngày 30/9/2005 đến 16h00 ngày 30/9/2006;

-    Tỷ lệ phí bảo hiếm: 0,2%; phí bảo hiểm: 745.901.000 đồng (đã bao gồm 10% thuế

GTGT);

-          Hình thức thanh toán: Công ty YMA  sẽ thanh toán phí bảo hiểm cho

NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình làm 3 đợt:

+ Đợt 1: 200.000.000 đồng, 45 ngày sau (kể từ ngày ký hợp đồng);

+ Đợt 2: 220.000.000 đồng, vào ngày 15/3/2006;

+ Đợt 3: 334.901.000 đồng, vào ngày 15/6/2006;

Ngoài ra, trong hợp đồng còn có điều khoản về trách nhiệm của các bên; Điều khoản bổ sung; Điều khoản về bồi thường tổn thất và khiếu nại; Điều khoản về cam kết chung...

2. Thực hiện hợp đồng: Đến hạn thu phí bảo hiểm đợt 1, ngày 11/11/2005, NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình có Thông báo thu phí bảo hiểm, gửi Công ty YMA  yêu cầu nộp phí bảo hiểm; sau đó, vào ngày 12/11/2005, hai bên ký biên bản thỏa thuận về việc nộp phí bảo hiểm, theo đó: NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình chấp nhận cho Công ty YMA  tiếp tục nợ phí bảo hiểm và tiếp tục bảo hiểm cho Nhà máy gỗ YMA theo hiệu lực của Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005.

Trong giai đoạn thu phí bảo hiểm đợt 1 đã có những sự kiện liên quan xảy ra: Cụ thể: Ngày 25/10/2005, 4 cổ đông sáng lập gồm: Tổng công ty Cao su Việt Nam, Công ty Cao su Tân Biên, Công ty Cao su QT và Công ty YMA  họp Đại hội cổ đông và quyết định thành lập LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX (gọi tắt là LQ_Công ty Cổ phần MPT MAX), thông qua Điều lệ Công ty và yêu cầu Công ty YMA  hoàn tất thụ tục chuyển giao Nhà máy gỗ YMA cho LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX. Ngày 28/10/2005, LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Ngày 24/11/2005, Công ty YMA  lập Biên bản bàn giao nguyên tắc hiện trạng Nhà máy gỗ YMA cho LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX với nội dung: bàn giao hiện trạng Nhà máy gỗ YMA COSEVCO; toàn bộ vật tư, nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế và các sản phẩm gồ MPT đến ngày 24/11/2005; riêng phần nợ các tổ chức tín dụng, nợ các nhà thầu sẽ thực hiện theo Điều 6.3 của Điều lệ Công ty cổ phần... Theo Biên bản này, thì từ 0 giờ 00 ngày 24/11/2005, trách nhiệm pháp lý và việc tổ chức quản lý, điều hành sản xuất gỗ MPT do LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX thực hiện. 

Trong giai đoạn này, Công ty YMA đang tiến hành thủ tục cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước. Ngày 30/12/2005, Bộ Xây dựng có Quyết định số 2402/QĐ-BXĐ phê duyệt phương án cổ phần hóa Công ty YMA với tên mới là BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10 (ngày 12/4/2007 BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10 được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh).

- Ngày 10/3/2006, NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình có Thông báo thu phí bảo hiểm

đợt 1 và đợt 2 gửi Công ty YMA  yêu cầu nộp phí bảo hiểm. Sau đó, vào ngày 30/3/2006, đại diện các bên gồm: NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình, Công ty YMA , Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh QT và LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX họp bàn về việc thực hiện Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005. Tuy nhiên các bên tham gia có ý kiến khác nhau nhưng thống nhất: Chưa thanh lý hợp đồng, Công ty YMA có trách nhiệm làm việc với Hội đồng quản trị LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX để chuyển giao hợp đồng bảo hiểm tài sản đã ký hoặc ký hợp đồng bảo hiểm mới, đồng thời tìm nguồn đế thanh toán phí bảo hiểm. Ngày 10/6/2006,  NĐ_Công  ty  Bảo  hiểm  An Bình ra  Thông  báo  thu  phí  bao  hiểm  số 246BVQT/2006 yêu cầu Công ty YMA  thanh toán phí bảo hiểm theo Hợp đồng là 754.901.000 đồng vào ngày 15/6/2006. Sau đó, NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình đã có nhiều văn bản yêu cầu thanh toán phí bảo hiểm, nhưng Công ty YMA  cùng như LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX đều không thực hiện và cũng không ký hợp đồng bảo hiểm mới.

- Hết hạn Hợp đồng bảo hiểm, ngày 25/10/2006, NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình và Công ty YMA  ký Biên bản thanh lý hợp đồng, theo đó: Công ty YMA  có trách nhiệm thanh toán cho NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình toàn bộ phí bảo hiểm là 754.901.000 đồng trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thanh lý hợp đồng.

Do Công ty YMA  không thanh toán và được cổ phần hóa thành Công ty Cổ phần Xây dựng BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10, nên ngày 7/5/2007, NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình khởi kiện BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10 với yêu cầu buộc phải thanh toán phí bảo hiểm theo Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005. Tiếp đó, vào ngày 10/5/2007 NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình có đơn kiện bổ sung yêu cầu LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX - đơn vị sở hữu tài sản là Nhà máy gỗ YMA phải thanh toán phí bảo hiểm trên.

Đại diện bị đơn (Công ty cổ phần Xây dựng BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10) cho rằng; Nhà máy gỗ YMA  đã được chuyển giao cho LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX quản lý, điều hành sản xuất từ 0 giờ 00 ngày 24/11/2005, LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX đã hưởng lợi từ Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005, vì vậy phải thừa nghĩa vụ thanh toán phí bảo hiểm cho NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình; đồng thời cho rằng việc Giám đốc Công ty YMA  trước đây ký Biên bản thanh lý hợp đồng bảo hiểm tài sản với NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình là không đúng, bởi vì: Tài sản bảo hiểm được chuyển giao cho LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX từ ngày 24/11/2005.

Còn đại diện LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX thì cho rằng, trong các biên bản bàn giao, đối chiếu công nợ liên quan đến đầu tư Nhà máy gỗ YMA COSEVCO giữa Công ty MPT COSEVCO với LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX không thể hiện khoản tiền phải trả theo Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005, cho nên LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX không có nghĩa vụ thanh toán phí bảo hiểm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thấm số 03/2007/KDTM-ST ngày 20/8/2001

Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại ĐN đã quyết định: Giữ nguyên Bản án kinh doanh,

thương mại sơ thẩm.

Sau khi xét xử phúc thẩm, LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX có đơn đề nghị xét là bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Ngày 5/9/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Quyết định kháng nghị số   14/KN-VKSNDTC-V12   đối   với   Bản   án   kinh   doanh,   thương   mại   phúc   thẩm 17/2008/KDTM-PT ngày 14/1/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại ĐN và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hưởng Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với lý do (tóm tắt)

-    LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX không phải là Nhà máy gỗ YMA được tách ra từ Công ty YMA  để thực hiện cổ phần hóa như án sơ thấm và án phúc thẩm nhận định.

-    Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông sáng lập ngày 25/10/2005; các biên bản bàn giao Nhà máy gỗ YMA ngày 18/11/2005, ngày 24/11/2005 và các công văn đề nghị chuyển giao công nợ của Công ty YMA  (số 645/CV-CTXD ngày 26/12/2005; số 141/CV-CTXD ngày 17/5/2006; số 234/CTXDĐA hgày 30/9/2006, số 18/CTXD ngày 6/3/2007) và tại biên bản bàn giao ngày 2/4/2007 giữa Công ty YMA  và LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX (và Bản phụ 3 kèm theo) đều không thể hiện việc bàn giao khoản nợ phí bảo hiểm theo Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005, mặc dù tại thời điểm này Công ty YMA đã ký Biên bản thanh lý Hợp đồng bảo hiểm tài sản ngày 25/10/2006.

-    Biên bản cuộc họp ngày 30/3/2006, Công ty YMA , NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình, LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX và Ngân hàng Nông nghiệp... chỉ có đại diện Công ty YMA  và NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình ký tên và đóng dấu; không có chữ ký của đại diện LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX nên không thể coi văn bản này là cơ sở pháp lý của việc chuyển đối tượng bảo hiểm (Nhà máy gỗ YMA) từ Công ty YMA  sang LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX, không đúng theo quy định tại Điều 579 Bộ luật dân sự 2005; Công ty YMA  đã có lỗi khi không bàn giao nợ phí bảo hiểm cho LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX.

XÉT THẤY:

1.   Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện đề ngày 7/5/2007 và đơn khởi kiện bổ sung đề ngày

10/5/2007, NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình yêu cầu BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10 và LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX phải thanh toán phí bảo hiểm tài sản cho NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình. Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10 là bị đơn; còn LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chỉ buộc LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX thanh toán phí bảo hiểm cho NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình là không đúng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trong trường hợp này phải xác định Công ty YMA  (nay là BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10) và LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX là bị đơn mới đúng.

2.   Theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì trước khi cổ phần hóa Công ty YMA  thành BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10 thì Nhà máy gỗ YMA là đơn vị trực thuộc Công ty YMA . Theo Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông ngày

25/10/2005, Công ty YMA  phải chuyển giao Nhà máy gỗ YMA cho LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX. Ngày 24/11/2005, Công ty YMA  đã tiến hành bàn giao Nhà máy gỗ YMA cho LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX mới chính thức trở thành chủ sở hữu mới của Nhà máy gỗ YMA.

Theo quy định tại khoản 2, Điều 579 Bộ luật dân sự năm 2005 thì: “Trong trường hợp quyền sơ hữu đối với tài sản bảo hiểm được chuyển cho người khác thì chủ sở hữu mới đương

 

nhiên thay thế chủ sở hữu cũ trong hợp đồng bảo hiểm, kể từ thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản. Chủ sở hữu cũ là bên mua bảo hiểm phải báo cho chủ sở hữu mới biết về việc tài sản đã được bảo hiểm, báo kịp thời cho bên bảo hiểm về việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản”. Với quy định trên và đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì: đã có việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản là Nhà máy gỗ YMA từ chủ sở hữu cũ là Công ty YMA  sang LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX theo Biên bản Đại hội đồng cổ đông ngày 25/10/2005. Tại Biên bản cuộc họp ngày 30/3/2006, chủ sở hữu cũ (Công ty YMA ) đã báo cho chủ sở hữu mới (LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX) biết về tài sản là Nhà máy gỗ YMA đã được bảo hiểm. Đồng thời tại Biên bản này, chủ sở hữu cũ cũng đã báo cho NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình về việc bàn giao tài sản bảo hiểm là Nhà máy gỗ YMA cho LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX. Như vậy, đã có đủ căn cứ để khẳng định LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX đương nhiên kế thừa, thay thế Công ty YMA  trong Hợp đồng bảo hiểm, kể từ ngày chuyển quyền sở hữu tài sản (ngày 24/11/2005). Vì vậy LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX phải có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm tài sản từ thời điểm chuyển giao quyền sở hữu tài sản (24/11/2005) đến hết hạn Hợp đồng bảo hiểm; còn Công ty YMA  có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm tài sản từ ngày Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực pháp luật (30/9/2005) đến ngày chuyển giao tài sản (24/11/2005). Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm buộc LQ_Công ty Cổ phần gỗ MPT MAX phải thanh toán toàn bộ phí bảo hiểm tài sản cho NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình là không đúng pháp luật.

Riêng nhận định kháng nghị về dấu hiệu không trung thực của hai Công ty khi ký Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005 và việc ký hai Hợp đồng bảo hiểm tài sản cho cùng một đối tượng là không đúng, vì:

-    BĐ_Công ty Xây dựng số 9 được thành lập theo Quyết định số 1318/QĐ-BXD ngày 23/10/1999 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Ngày 20/8/2003, Công ty này ký Hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh QT. Theo Quyết định số 486/QĐ-BXD ngày 24/3/2004 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng thì Công ty này được đổi tên thành Công ty YMA . Đến ngày 12/4/2007, Công ty YMA  chính thức trở thành Công ty cổ phần Xây dựng BĐ_Công ty cổ phần Xây Dựng số 10. Như vậy, việc trích căn cứ Hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản của chủ thể Hợp đồng bảo hiểm tài sản là đúng.

-    Không có việc Công ty YMA  ký hai hợp đồng bảo hiểm tài sản với Nhà máy gỗ YMA COSEVCO, vì: Tuy ngày 27/6/2005, Công ty YMA  và NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình có ký Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 05/BHTS-2005 nhưng sau đó NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình đã có Công văn số 344/BVQT-2005 ngày 29/9/2005 gửi Công ty YMA  thông báo việc hủy bỏ Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 05/BHTS-2005 nói trên và hai bên đã ký lại bằng Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005 ngày 30/9/2005 và; NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình cũng đã có Văn bản số 345/BVQT-2005 ngày 1/10/2005 gửi Bảo hiểm Việt Nam thông báo về việc hủy bỏ Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 05/BHTS-200 ngày 27/6/2005 giữa NĐ_Công ty Bảo hiểm An Bình và Công ty YMA  và ký lại; bằng Hợp đồng bảo hiểm tài sản số 01/BHTS-2005 ngày 30/9/2005.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào Khoản 3, Điều 291; Khoản 3, Điều 297; Khoản 2, 3, Điều 299

Bộ Luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH:

1.   Hủy  Bản  án  kinh  doanh,  thương  mại  sơ  thẩm  số  03/2007/KDTM-ST  ngày

20/8/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh QT và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thấm số

17/2008/KDTM-PT ngày 14/1/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại ĐN.

2.   Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh QT xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.


 

 

 

 

 

 

Tên bản án

Bản số 11/2008/KDTM-GĐT Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm tài sản

Số hiệu 11/2008/KDTM-GĐT Ngày xét xử 24/11/2008
Bình luận án