QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 13/2014/GĐT-HC NGÀY 15/08/2014 VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

TÒA HÀNH CHÍNH TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 15 tháng 8 năm 2014, tại trụ sở Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai, giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Ông Hoàng Văn Mộc; địa chỉ: số 01/6, khu phố Đông A, phường Đông Hòa, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Người bị kiện: Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Dĩ An (nay là thị xã Dĩ An), tỉnh Bình Dương.

NHẬN THẤY

Ngày 29/8/2008, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 2680/QĐ-UBND về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng Công trình đường ấp Đông và ấp Tây đi quốc lộ 1K, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Để thực hiện Dự án đã được phê duyệt; ngày 31/12/2009, ủy ban nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 8771/QD-UBND về việc thu hồi diện tích 29,4m2 đất của hộ ông Hoàng Văn Mộc, thuộc thửa đất số 261d1 và 261k, Tờ bản đồ địa chính số 04, tọa lạc tại ấp Đông A, xã Đông Hòa, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Ngày 02/6/2010, ủy ban nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 3130/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của hộ ông Hoàng Văn Mộc, vói diện tích 199,4m2 thuộc thửa đất số 801, Tờ bản đồ địa chính số 4, tọa lạc tại ấp Đông A, xã Đông Hòa, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do ông Mộc đang quản lý, sử dụng để thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng phục vụ công trình xây dựng đường ấp Đông đi Quốc lộ 1K, huyện Dĩ An, tỉnh Bmh Dương.

Trước đó, tại Biên bản áp giá số 99/BBAG-BT-GT ngày 27/10/2009, Ban bồi thường, giải tỏa huyện Dĩ An lập phương án bồi thường đối với hộ ông Hoàng Văn Mộc như sau: Đất HLĐB quy đổi đất nông nghiệp: diện tích 199,4m2, vị trí Quốc lộ 1K, đơn giá 1.000.000đ/1m2, thành tiền = 319.040.000đ. Đất HLĐB quy đổi đất nông nghiệp: diện tích 28m2, vị trí ấp Đông, đơn giá 1.150.000đ, thành tiền = 32.200.000đ. Đất nông nghiệp: diện tích 1,4m2, vị trí ấp Đông, đơn giá 1.150.000đ, thành tiền = 1.610.000đ. Tổng cộng = 352.850.000đ.

Ngày 31/8/2010, Ban bồi thường giải tỏa huyện Dĩ An tiến hành lập Biên bản áp giá bổ sung đôi vói hộ ông Hoàng Van Mộc. Nội đung: Đất HLĐB quy đổi đất nông nghiệp đường QL 1K(vị trí 1), diện tích 199,4m2, đơn giá 1.600.000đ/1m2 là 391.040.000đ; đã HWB quy đổi đất nông nghiệp đường ấp Đông QL 1K (vị trí 1), diện tích 28m2, đơn giá 1.150.000đ là 32.200.000đ; đất thổ cư đường áp Đông đ QL 1K (vị trí 1), diện tích 1.4m2, đơn giá 2.000.000đ/1m2 là 2.800.000đ; tổng cộng= 354.040.000đ.

Ngày 04/12/2009, Chủ tich ủy ban nhân dân huyện Dĩ An ban hành Quyết định số 6541/QĐ-UBND về việc công bố tiền bồi thường về đất và tài sản trên đất đối với hộ dân thuộc công trình xây dựng đường ấp Đông, ấp Tây đi Quốc lộ 1K huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Theo đó, hộ ông Hoàng Văn Mộc được bồi thường như sau: Bồi thường đất: 352.850.000đ. Tổng diện tích bồi thường: 228,8m2 đất nông nghiệp.Bồi thường công trình vật kiến trúc: 210.780.873đ. Bồi thường cây cối hoa màu: 555.000đ. Tổng cộng: 564.185.873đ.

Ngày 28/10/2010, ủy ban nhân dân huyện Dĩ An ban hành Quyết định số 6914/QĐ-UBND về việc công bố bổ sung tiền bồi thường về đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Hoàng Văn Mộc, nội dung: “Về đất: 1.190.000đ; tổng diện tích giải tỏa: 1,4m2 đất thổ cư; về công trình vật kiến trúc: 14.580.000đ; tổng cộng: 15.770.000đ".

Ngày 23/7/2011, ông Hoàng Văn Mộc có đơn khởi kiện vụ án hành chính, yêu cầu Tòa án hủy một phần Quyết định số 6541/QĐ-UBND ngày 04/12/2009 của Chủ tich ủy ban nhân dân huyện Dĩ An, vì cho rằng việc ủy ban nhân dân huyện Dĩ An bồi thường giá trị quyền sử dụng đất cho hộ gia đình Ông phần diện tích 158m2 đất với đơn giá 1.600.000đ/1m2 (đất nằm trong hành lang an toàn giao thông đường bộ) là không thỏa đáng; ông Mộc đề nghị được bồi thường phần diện tích đất trên theo giá đất thổ cư (4.000.000đ/1m2) và 41,4m2 đất theo giá đất thi trường.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2011/HC-ST ngày 09/9/2011, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Hoàng Văn Mộc về việc yêu cầu hủy một phần Quyết định 6541/QĐ-UBND ngày 04/12/2009 của Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Dĩ An về việc công bố tiền bồi thường về đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Hoàng Văn Mộc.

Ngày 14/9/2011, ông Hoàng Văn Mộc có đơn kháng cáo.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 12/2011/HCPT ngày 29/12/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Hoàng Văn Mộc. Sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2011/HCST ngày 09/9/2011 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương như sau: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn Mộc. Hủy Quyết định sô' 6541/QĐ- UBND ngày 04/12/2009 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thị xã Dĩ An.

Ngày 16/7/2012, ủy ban nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương có Công văn số 1965/UBND-KT đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án hành chính phúc thẩm nêu trên.

Ngày 16/12/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã có Kháng nghị giám đốc thẩm số 22/2013/KN-HC, với nội dung: Kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm sổ 12/2011/HCPT ngày 29/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Đề nghị Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tối cao xét xử giảm đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hành chỉnh phúc thấm số 12/2011/HCPT ngày 29/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2011/HC-ST ngày 09/9/2011, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với nội dung Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng: Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1059 QSDĐ/CQ.ĐH ngày 30/10/1997 của ủy ban nhân dân huyện Thuận An (cũ), tỉnh Bình Dương cấp cho hộ ông Hoàng Văn Mộc vói tổng diện tích 356m2 đất, thuộc thửa 801, Tờ bản đồ số 04 tọa lạc tại ấp Đông, xã Đông Hòa, huyện Thuận An; trong đó có diện tích 226m2 là đất hành lang bảo vệ đường bộ và diện tích 130m2 là đất vườn.

Ngày 09/10/2006, trên cơ sở đơn xin chuyển mục đích sử dụng đất của hộ •' gia đình ông Hoàng Văn Mộc từ đất vườn sang đất ỏ; ủy ban nhân dân huyện Dĩ An cho phép hộ ông Mộc được quyền chuyển đổi phần diện tích 46m2 đất vườn sang đất ở tại nông thôn; diện tích đất còn lại là đất nằm trong hành lang bảo vệ đường bộ.

Tại Điều 7 Nghị định số 203-HĐBT ngày 21/12/1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ban hành điều lệ bảo vệ đường bộ quy định: “Hành lang bảo vệ các công trình giao thông đường bộ hệ thống đường quốc lộ là 20m; hệ thống đường tỉnh là 10m2"

Tại điểm 4 Điều 6 Quy định bảo về đường bộ trên địa bàn tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Dương) ban hành kèm theo Quyết định số 51/QĐ-UB ngày 11/02/1991 của ủy ban nhân dân tỉnh Sông Bé quy định: “Đường huyện, đường xã: Theo quy định của huyện, thị nhưng hành lang bảo vệ đường bộ không nhỏ hơn 4m và phạm vi giải tỏa là 3m”.

Tại Quyết định số 3763/QĐ-UBND ngày 19/8/2009, ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương xác định chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với các hộ dân có đất bị thu hồi quy định như sau:

1. Quy định về bồi thường đất hành lang bảo vệ đường bộ:

a) Các trường hợp không được bồi thường đất hành lang bảo vệ đường bộ:

- Không xem xét bồi thường đối với đất thuộc hành lang bảo vệ đường bộ đã được nhà nước xác lập trước ngày 1511011993 (thời điểm Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành).

-  Không xem xét bồi thường đối với đất thuộc hành lang bảo vệ đường bộ trong các trường hợp được nhà nước giao đất, cho thuê từ quỹ đất công (có hoặc không có thu tiền sử đụng đất), được nhà nước bán hóa giá nhà thuộc sỏ hữu nhà nước mà trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đã được trừ diện tích hành lang bảo vệ đường bộ.

b) Các trường hợp còn lại không thuộc điểm a được bồi thường theo quy định sau:

Giá bồi thường đất bảo vệ hành lang đường bộ được áp dụng theo nguyên tắc:

- Đất hành lang bảo vệ đường bộ liền kề với đất nông nghiệp hoặc đất phi nông nghiệp nhưng không phải là đất ở thì bồi thường theo giá đất nông nghiệp.

- Đất hành lang bảo vệ đường bộ liền kề với đất ở được bồi thường theo giá đất ở nhưng tổng diện tích của các thửa đất không vượt định mức đất ở theo quy định tại thời điểm giao đất, nếu chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì theo quy định mức đất ở lúc bồi thường giải tỏa. Trường hợp vượt hạn mức đất ở thì phần vượt định mức được bồi thường theo giá đất nông nghiệp

Đối chiếu với các quy định nêu trên thì tổng diện tích 199,4m2 đất của hộ ông Hoàng Văn Mộc bị thu hồi là đất nằm trong hành lang bảo vệ đường bộ. Căn cứ vào Quyết định số 51/QĐ-UB ngày 11/02/1991 của ủy ban nhân dân tỉnh Sông Bé thì diện tích đất này đã được Nhà nước xác lập trước ngày 15/10/1993.

Tại nội dung Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Hoàng Văn Mộc được cấp năm 1997 và năm 2006 đều thể hiện phần diện tích đất bị thu hồi nằm trong hành lang bảo vệ đường bộ. Do đó, ông Mộc yêu cầu được bồi thường phần diện tích đất này theo giá đất thổ cư và giá đất thị trường là không có cơ sở để xem xét. Lẽ ra, khi Nhà nước thu hồi phần diện tích đất này; hộ gia đình ông Hoàng Văn Mộc không được bổi thường giá trị quyền sử dụng đất. ủy ban nhân dân huyện Dĩ An đã áp giá bồi thường phần diện tích 158,4m2 đất nằm trong hành lang bảo vệ đường bộ tương ứng với giá đất nông nghiệp là đã có lọi cho gia đình ông Hoàng Văn Mộc.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2011/HC-ST ngày 09/9/2011, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã quyết định bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn Mộc về việc yêu cầu hủy một phần Quyết định số 6541/QĐ-UBND ngày 04/12/2009 của Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Dĩ An về việc công bố tiền bồi thường về đất và tài sản trên đất đối với ông Hoàng Văn Mộc là có căn cứ.

Tòa cấp phúc thẩm khi xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Văn Mộc, sửa án sơ thẩm và hủy Quyết định số 6541/QĐ-UBND ngày 04/12/2009 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thị xã Dĩ An là không cần thiết. Đối với trường họp này, lẽ ra Quyết định số 6541/QĐ-UBND ngày 04/12/2009 phải của ủy ban nhân dân huyện Dĩ An, nhưng khi soạn thảo lại đề Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Dĩ An.Sai sót này của ủy ban nhân dân huyện Dĩ An, là sai sót về hình thức văn bản, nên chỉ cần rút kinh nghiệm.

Do vậy, Kháng nghị giám đốc thẩm số 22/2013/KN-HC ngày 16/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tôi cao là có căn cứ pháp luật.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 225 Luật tố tụng hành chính;

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 22/2013/HC-KN ngày 16/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy Bản án hành chính phúc thẩm Bản án hành chính phúc thẩm số 12/2011/HCPT ngày 29/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2011/HC-ST ngày 09/9/2011 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 13/2014/GĐT-HC về xét xử vụ án hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án