QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 159/2014/DS-GĐT NGÀY 18/04/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 18 tháng 04 năm 2014 tại trụ sở Cơ quan thường trực Tòa án nhân dân tối cao tại phía Nam mở phiên tòa eiám đốc thẩm xét xử vụ án “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1962

Địa chỉ: 43B ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Bổng, sinh năm 1949

Địa chỉ: 43B ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Mạnh Hổ, sinh năm 1960

Địa chỉ: 43/1N ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh

2. Bà Nguyễn Thị Thanh Quế, sinh năm 1964

Địa chỉ: 100/2B ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phổ Hồ Chí Minh

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện ngày 07/06/2007 nguyên đơn, bà Nguyễn Thị Thanh trình bày: Năm 1984, mẹ bà là cụ Huỳnh Thị Nữ (chết 2001) được Nông trường Nhị Xuân cấp cho 2000m2 đất, trên đất có sẵn một căn nhà do Thanh niên xung phong cất. Cụ Nữ đã chia cho con trai là ông Nguyễn Mạnh Hổ 1000m2 đất, còn lại 1000m2cụ Nữ cùng các con gái là bà, bà Nguyễn Thị Bống, bà Nguyễn Thị Thanh Quế sử dụng. Nay bà có yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của mẹ bà là cụ Huỳnh Thị Nữ (chết 2001) để lại là diện tích lOOOnr đất tại số 43B ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh hiện do chị gái bà là bà Nguyễn Thị Bong quản lý, sử dụng.

Bà Nguyễn Thị Bổng trình bày: Năm 1984, cụ Huỳnh Thị Nữ đứng tên đại diện gia đình xin cấp đất giãn dân đã được Nông trường Nhị Xuân cấp cho 2000m2 đất. Năm 1985, gia đình đã đăng ký nhân khẩu do bà đứng tên chủ hộ.

Sau đó, tất cả các anh chị em đều làm việc tại Nông trường Nhị Xuân. Năm 1985, bà Quế lấy chồng chuyển đi nơi khác sống. Năm 1986, bà Thanh đi nơi khác làm ăn không còn sống chung với gia đình, ông Hổ đã tự đăng ký kê khai phần diện tích 1000m2, phần 1000m2 còn lại (thực tế đo vẽ là 1369m2) bà là chủ hộ đã trực tiếp kê khai, đóng thuế cho Nhà nước. Bà không đồng ý chia thừa kế vì Nông trường cấp cho bà (chủ hộ gia đình), bà đã kê khai, quản lý sử dụng và đóng thuế đất đầy đủ.

Năm 2004, bà đã chuyển nhượng cho ông Phan Văn Long một phần diện tích đất khoảng 350m2 bằng giấy viết tay.

Ông Nguyễn Mạnh Hổ trình bày: Năm 1984, cụ Nữ được Nông trường cấp cho 02 mảnh đất, do ông có gia đình riêng nên cụ Nữ đã chia cho ông sử dụng một mảnh diện tích 1000m2. Đối với phần diện tích đất còn lại, bà Thanh có yêu cầu chia thừa kế, ông không có tranh chấp gì nhưng đề nghị Tòa án xem xét bảo đảm quyền lợi cho bà Bổng vì bà Bổng là người phụng dưỡng mẹ.

Bà Nguyễn Thị Thanh Quế trình bày: Trường hợp Tòa án xác định phần đất 1369m2 là di sản của cụ Nữ để lại thì bà xin nhận phần thừa kế theo quy định pháp luật.

Ông Phan Văn Long trình bày: tháng 02/2004, bà Bổng đã chuyến nhượng cho ông diện tích 682,3m2 với giá 300.000.OOOđồng. ông Long không làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được vì có tranh chấp giữa bà Thanh với bà Bổng, ông đề nghị Tòa án công nhận cho ông quyền sử dụng phần đất mà ông đã nhận chuyển nhượng.

Tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 577/2010/QĐST-DS ngày 17/12/2010, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phó Hồ Chí Minh đã quyết định:

Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý so 182/2007VTLST-DS ngày 02/07/2007 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1962

Địa chỉ: 43B ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phổ Hồ Chí Minh

Địa chỉ liên lạc: 6/14B khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Bổng, sinh năm 1949

Địa chi: 43B ấp 5, xã Xuân Thớt Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Mạnh Hổ, sinh năm 1960

Địa chỉ: 43/1N ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phổ Hồ Chí Minh

2. Bà Nguyễn Thị Thanh Quế, sinh năm 1964

Địa chi: 100/2B ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phổ Hồ Chí Minh

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 31/12/2010, bà Nguyễn Thị Thanh có đơn kháng cáo.

Tại Quyết định số 255/2011/QĐ-DSPT ngày 14/03/2011 giải quyết việc kháng cáo quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Giữ nguyên quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thấm số 577/2010/QĐST-DS ngày 27/12/2010 cùa Tòa án nhăn dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh như sau:

Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 182/2007/TLST-DS ngày 02/07/2007 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1962

Địa chỉ: 43B ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh

Địa chỉ liên lạc: 6/14B khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chỉ Mình

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Bỗng, sinh năm 1949

Địa chỉ: 43B ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Mạnh Hồ, sinh năm 1960

Địa chỉ: 43/1N ấp 5, xã Xuân Thói Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh

2. Bà Nguyễn Thị Thanh Quế, sinh năm 1964

Địa chỉ: 100/2B ấp 5, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh

Trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho bà Nguyễn Thị Thanh.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí của các đương sự.

Sau khi có quyết định phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Thanh có đơn đề nghị xem xét quyết định dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 44/2014/KN-DS ngày 24/02/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định số 255/201 1/QĐ-DSPT ngày 14/03/2011 của Tòa án nhân dân thành phổ Hồ Chí Minh, đề nghị Tòa Dân sự - Tòa án nhân dân tối cao xử giám đốc thẩm hủy quyết định dân sự phúc thấm nêu trên và Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm số 577/2010/QĐST-DS ngày 27/12/2010 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm theo đúnu quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Năm 1984, cụ Huỳnh Thị Nữ (chết năm 2001) làm đơn xin di kinh tế mới tại Nông trường Nhị Xuân và được giao sử dụng khoảng 2000m2 (trên đất có sẵn một ngôi nhà của Thanh niên xung phong cất). Trong đó 1000m2 đất cụ đã chia cho con trai là Nguyễn Mạnh Hổ quản lý, sử dụng tại 43/1 ấp 5 xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Diện tích đất 1000m2 còn lại tại 43B ấp 5 xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, trên có căn nhà lợp mái tôn, vách gỗ do lực lượng thanh niên xung phong xây dựng, cụ Huỳnh Thị Nữ sử dụng, sinh sống cùng các con gái là bà Nguyễn Thị Bổng, bà Nguyễn Thị Thanh, bà Nguyễn Thị Thanh Quế. Năm 1985, bà Nguyễn Thị Thanh Quế lấy chồng và chuyển đi nơi khác sinh sống. Năm 2001, cụ Huỳnh Thị Nữ mất. Năm 2004, bà Nguyễn Thị Bổng làm hồ sơ kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa được cấp giấy chứne nhận. Bà Nguyễn Thị Thanh khởi kiện chia thừa kế và xác định di sản của cụ Huỳnh Thị Nữ đế lại là nhà đất tại 43B ấp 5 xã Xuân ThớTSơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị dơn - bà Nguyễn Thị Bổng trình bày trên diện tích đất mà cụ Huỳnh Thị Nữ đại diện hộ gia đình có đơn xin Nông truừng Nhị Xuân cấp đất đã có sẵn ngôi nhà do Lực lượng Thanh niên xung phong dựng. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Bống xác định bà là chủ hộ gia đình, đã trực tiếp quản lý, sử dụng nộp thuế đất, kê khai quyền sử dụng đất nên không đồng ý chia thừa kế.

Do tài sản tranh chấp có nhà gắn liền với khuôn viên diện tích đất, mà theo quy định tại khoản 1 Điều 136 củaLuật Đất Đai và tiểu mục 1.3 Mục 1 Phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn đình chỉ giải quyết vụ án với lý do diện tích đất mà bà Nguyễn Thị Thanh khởi kiện chia thừa kế chưa có các giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai do vậy tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tại cấp phúc thẩm, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết kháng cáo đã giữ nguyên quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng quy định pháp luật.

Do dó, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị hủy Quyết định số 255/2011/QĐ-DSPT ngày 14/03/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết việc kháng cáo quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm số 577/2010/QĐST-DS ngày 27/12/2010 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết lại vụ án theo trình tự sơ thẩm là có căn cứ, cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ khoản 2 Điều 291; Điều 297; khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Quyết định số 255/2011/QĐ-DSPT ngày 14/03/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết việc kháng cáo quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thâm sô 577/2010/QĐST-DS ngày 27/12/2010 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thanh với bị đon là bà Nguyễn Thị Bống;

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 159/2014/DS-GĐT ngày 18/04/2014 về vụ án Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án