QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 20/2014/GĐT-HC NGÀY 23/09/2014 VỀ VIỆC XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH VỀ KHIẾU KIỆN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

TÒA HÀNH CHÍNH TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 23 tháng 9 năm 2014, tại trụ sở Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hành chính, giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Ông Phan Văn My; địa chỉ: số 78/31 Hẻm 78, Đường 12, khu phố Trường Khánh, phường Long Phước, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

Người bị kiện: ủy ban nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; địa chỉ: Khu Phước Hải, thị trấn Long Thành, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Trần Thị Di; địa chỉ: số 847, tổ 30, đường Long Phước, ấp Trường Khánh, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh;

+ Bà Nguyễn Thị Cụt; địa chỉ: số 78/31 Hẻm 78, Đường 12, khu phố Trường Khánh, phường Long Phước, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Việc xảy ra ứanh chấp và CỊuá trình giải quyết khiếu kiện ữanh chấp đất đai giữa ông Phan Văn My với bà Trấn Thị Di đối với phần đất có diện tích 3.100mthuộc thửa số 61, tờ bản đồ số 7 tại xã Tam An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai được thể hiện như sau:

Ngày 23/11/1993, ông Phan Văn My có đơn kê khai đăng ký xin cấp Giấy chứng nhận quyên sử dụng đât với diện tích 39.320m2 đất gồm các thửa số 973, 974, 975, 977 tờ bản đồ số 06 (cũ) và các thửa số 04, 07, 08, 12,13, 17, 18, 30, 31, 38, 61 tờ bản đồ số 07(cũ) thuộc xã Tam An huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; trong đó ghi thửa số 61 có nguồn gốc là đất của ông, cha để lại vào năm 1970 và sử dụng cho đến nay.

Ngày 21/10/1999, ủy ban nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0.179739 cho ông Phan Văn My đối với diện tích 39.320m2 đất trên, trong đó có 3.100m2đất thuộc thửa số 61, tờ bản đồ số 7 tại xã Tam An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Năm 2008, bà Trần Thị Di kê khai xin cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo tờ bản đồ mới, thì phát hiện diện tích đất 3.100m2 thuộc thửa số 61, tờ bản đồ số 7 tại xã Tam An mà bà đang canh tác đã bị ông My đăng ký nhàm vào năm 1993 và được ủy ban nhân dân huyện Long Thành cấp Giấy chứng nhận quỵền sử dụng đất nêu trên; nên ngày 24/02/2009, bà Di có đon khiếu nại việc ủy ban nhân dân huyện Long Thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông My đối với diện tích đất thuộc quyền sử dụng của Bà.

Ngày 23/3/2009, ủy ban nhân dân huyện Long Thành ban hành Quyết định 893/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Di, có nội dung: “Chấp thuận nội dung đơn của bà Trần Thị Di cư ngụ tại ấp Trường Khảnh, phường Long Phước, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh khiếu nại ủy ban nhân dân huyện Long Thành cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất cho ông Phan Văn My trong đó cổ một phần diện tích đất của gia đình Bà đang quản lý sử dụng là có cơ sở”.

Cùng ngày 23/3/2009, ủy ban nhân dân huyện Long Thành ban hành hai quyết định có cùng số là Quyết định số 891/QĐ-UBND có nội dung giống nhau là: “Thu hồi điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O.179739 do ủy ban nhân dân huyện Long Thành cấp ngày 21/10/1999 cho ông Phan Văn My, cư ngụ ấp Trường Khánh, phường Long Phước, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Lý do thu hồi: cấp trùng lên một phần diện tích của bà Trần Thị Di đang quản lỷ sử dụng” và khác nhau là: Một quyết định có tiêu đề “về việc thu hồi chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O.179739 và một quyết định có tiêu đề: “về việc thu hồi hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O.179739’’.

Ngày 11/6/2009, ông Phan Văn My có đơn khiếu nại Quyết định số 891/QĐ-UBND ngày 23/3/2009 của ủy ban nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Ngày 18/9/2009, Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Long Thành ban hành Quyết định số 3225/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại với nội dung bác đơn khiếu nại của ông Phan Văn My.

Ngày 26/10/2009, ông Phan Văn My có đon khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Tại Bản án hành chính sơ thấm số 04/2010/HC-ST ngày 22/9/2010, Tòa án nhận dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai đã quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn My về việc “Khiếu kiện qưyet định hành chỉnh trong việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất’’ đối với ủy ban nhân dân huyện Long Thành. Giữ nguyên Quyết định số 891/QĐ-UBH ngày 23/3/2009 của ủy ban nhân dân huyện Long Thành.

Ngày 30/9/2010, ông Phan Văn My kháng cáo.

Sau khi ông My kháng cáo, ngày 14/01/2011, ủy ban nhân dân huyện Long Thành ban hành Quyết định số 83/QĐ-UBND, có nội dung: “Thu hồi điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O.179739 do ủy ban nhân dân huyện Long Thành câp ngày 21/10/1999 cho ông Phan Văn My, cư ngụ âp Trường Khảnh, phường Long Phước, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Lý do thu hồi: Cấp trùng lên một phần diện tích của bà Trần Thị Di đang quản lý sử dụng”. Quyết định này thay thế 02 Quyết định số 891/QĐ-UBND ngày 23/3/2009 vì ủy ban nhân dân huyện cho rằng có sự nhầm lẫn trong khâu đánh máy và chỉnh sửa lại phần trích yếu, thực chất về nội dung không có gì thay đổi.

Ông My tiếp tục yêu cầu Tòa án xem xét Quyết định 83/QĐ-UBND ngày 14/01/2011 của ủy ban nhân dân huyện Long Thành.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2011/HC-PT ngày 25/02/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn My về việc “khiếu kiện quyết định hành chính trong việc thu hồi Giấy chứng nhận quyển sử dụng đất” đổi với ủy ban nhân dân huyện Long Thành. Giữ nguyên Quyết định sổ 83/QĐ-UBND ngày 14/01/2011 với nội dung thu hồi chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O.179739 của ủy ban nhân dân huyện Long Thành (Quyết định này thay thế Quyết định sổ 891/QĐ-UBND ngày 23/3/2009 về việc “thu hồi hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O.179739” và Quyết định sổ 891 /QĐ-UBND ngày 23/3/2009 về việc “thu hồi điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O.179739’’.

Ngày 18/03/2011, ông Phan Văn My có đorn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm nêu trên.

Ngày 14/01/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã có Kháng nghi giám đôc thẩm số 03/TANDTC-HC, với nội dung: Kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2011/HC-PT ngày 25/02/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và đề nghị Tòa Hành chỉnh Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án nêu trên và Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2010/HC-ST ngày 22/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành; giao hô sơ vụ án để Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tạm đình chỉ thi hành Bản án hành chính phúc thẩm sổ 01/2011/HC-PT ngày 25/02/2011 của Tòa án nhân dãn tỉnh Đồng Nai cho đến khỉ có quyết định giám đốc thẩm.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận thấy Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ và cần thiết, đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Hành chính Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thấy rằng, mặc dù bà Trần Thị Di cho rằng vào năm 1999, Bà có đăng ký kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được ủy ban nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai câp với diện tích 11.193m2 đât gồm 3 thửa, trong đó có 01 thửa của cha mẹ Bà để lại và 02 thửa (thửa 61 và thửa 63) do Bà nhận chuyển nhượng từ ông My vào năm 1980 (không làm giấy tờ); nhưng trong hồ sơ vụ án không thể hiện đơn kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Trần Thị Di. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, bà Di không xuất trình được tài liệu chứng minh việc vợ chồng Bà nhận chuyển nhượng từ ông My phần đất này từ năm 1980 và theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bà Di được cấp thì bà Di chỉ được quyền sử dụng một thửa đất do cha mẹ để lại và thửa đất số 63 nhận chuyển nhượng từ ông My (được cấp thành hai thửa mới), không có thửa số 61. Ngoài ra, sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà Di không có khiếu nại về việc úy ban cấp thiếu cho bà đối với diện tích thuộc thửa đất số 61, chỉ đến khi kê khai xin cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo tờ bản đồ mới (năm 2008) thì bà Di mới khiếu nại.

Trong khi đó, vào ngày 23/11/1993, ông Phan Văn My đã có đơn kê khai đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 39.320m2 đất gồm các thửa số 973, 974, 975, 977 tờ bản đồ số 06 (cũ) và các thửa số 04, 07, 08, 12, 13, 17, 18, 30, 31, 38, 61 tờ bản đồ số 07(cũ) tại xã Tam An; trong đó ghi thửa số 61 có nguồn gốc là của ông, cha để lại vào năm 1970 và sử dụng cho đến nay. Đen ngày 21/10/1999 thì ông My được ủy ban nhân dân huyện Long Thành cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0.179739 đối với diện tích 39.320m2 đất, trong đó gồm cả thửa đất số 61 và trong quá trình sử dụng, ông My đã nộp thuế đất từ ngày 04/12/2001 cho đến nay. Phía ông My không thừa nhận có việc chuyển nhượng cho bà Di thửa đất số 61, mà cho rằng trước đây ông có cho bà Di mượn thửa đất số 61 để canh tác; đến năm 1993 thì bà Di trả đất và Ông đã cho con là Phan Văn Hùng sử dụng để trồng sen.

Quyết định số 891/QD-UBND Ngày 23/3/2009 của ủy ban nhân dân huyện Long Thành về việc thu hồi điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0.179739 đã cấp cho ông Phan Văn My, thực chất là thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích 39.320m2 đất, không phải là điều chỉnh lại. Đồng thời, lý do thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất O.179739 của ông My được ghi trong quyết định là do cấp trùng; nhưng theo tài liệu có trong hồ sơ thể hiện đối với phần đât có diện tích nêu trên chỉ có một mình ông My được cấp giấy chứng nhận, bà Di chưa được cấp.

Như vậy, việc ủy ban nhân dân huyện Long Thành ban hành Quyết định 891/QĐ-UBND ngày 23/3/2009 thu hồi điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đât 0.179739 đã câp cho ông My với lý do câp trùng là không có căn cứ. Lẽ ra, trong trường họp này việc tranh chấp thửa đất so 61 giữa bà Trần Thị Di với ông Phan Văn My là tranh chấp đối với phần đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003 thì tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, việc ủy ban nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai ra quyết định giải quyết tranh chấp là không đúng thẩm quyền.

Căn cứ vào ý kiến của người đại diện theo ủy quyền của ủy ban nhân dân huyện Long Thành và lời khai của bà Trần Thị Di tại Biên bản phiên tòa sơ thẩm, thì diện tích đất của thửa đất số 61 có sự thay đổi; lý do có sự thay đổi diện tích 3.100m2 đất thuộc thửa 61, tờ bản đồ số 7(cũ) xuống còn 2.044m2 đất thuộc thửa số 156b, 163c tờ bản đồ số 49 (mới) là do đất bị sạt lở và do điều chỉnh số thửa, vấn đề này cũng chưa được làm rõ.

Việc Tòa án nhân dân huyện Long Thành khi giải quyết vụ án đã tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn My đối với Quyết định cùng số 891/QĐ-ƯBND ngày 23/3/2009 của ủy ban nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai là không phù hợp với quy định của pháp luật và các tình tiết khách quan của vụ án.

Sau khi ông Phan Văn My kháng cáo Bản án hành chính sơ thẩm, ủy ban nhân dân huyện Long Thành ban hành Quyết định số 83/QĐ-UBND ngày 14/01/2011, với nội dung: “Thu hồi điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ 0.179739 do ủy ban nhân dân huyện Long Thành cấp ngày 21/10/1999 cho ông Phan Văn My, cư ngụ ấp Trường Khánh, phường Long Phước, quận 9, TP.HCM. Lý do thu hồi: cấp trùng lên một phần diện tích của bà Trần Thị Di đang quản lỷ sử dụng” và Quyết định này thay thế 02 Quyết định số 891/QĐ-UBND ngày 23/3/2009 của ủy ban nhân dân huyện Long Thành.      

Quyết định 83/QĐ-UBND ngày 14/01/2011 của ủy ban nhân dân huỵêiV:-j Long Thành về nội dung không có gì khác so với Quyết định 891/QĐ-UBNDy ngày 23/3/2009 của Uy ban nhân dân huyện Long Thành và đã quyêt định Rằỵ đã được xem xét ở phần trên.

Mặt khác, Quỵết định 891/QĐ-UBND và Quỵết định 83/QĐ-UBND đều có nội dung là thu hồi toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0.179739 do ủy ban nhân dân huyện Long Thành cấp ngày 21/10/1999 cho ông Phan Văn My là không đúng vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này còn bao gồm nhiều thửa đất khác của ông My không có tranh chấp với bà Di.

Như vậy, khi giải quyết vụ án Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn My là không phù họp với tình tiết khách quan của vụ án.

Ngoài ra, Việc Tòa án cả hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm khi xét xử đều tuyên giữ nguyên các quyết định hành chính bị khiếu kiện là không đúng hướng dẫn về cách tuyên án tại Nghị quyết số 04/2006/NĐ-HĐTPngày 04/8/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (tương ứng với quy định tại khoản 2 Điều 163 Luật tố tụng hành chính).

Do vậy, Kháng nghị giám đốc thẩm số 03/2014/KN-HC ngày 14/01/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ pháp luật, cần thiết phải hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm để giải quyết lại vụ án.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 225 Luật tố tụng hành chính;

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 03/2014/KN-HC ngày 14/01/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2011/HC-PT ngàỵ 25/02/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và Bản án hành chính sơ thấm số 04/2010/HC-ST ngày 22/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; giao hồ sơ vụ án để Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 20/2014/GĐT-HC NGÀY 23/09/2014 VỀ VIỆC XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH VỀ KHIẾU KIỆN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án