QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 21/2014/DS-GĐT NGÀY 20/01/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP NUÔI CON VÀ TÀI SẢN SAU LY HÔN

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 20/1/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án hôn nhân gia đình về “tranh chấp nuôi con và tài sản sau ly hôn” giữa:

Nguyên đơn: Anh Phạm Ngọc Tám, sinh năm 1970;

Trú tại: Khu 3, xã Hoàng Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

Bị đơn: Chị Phùng Thị Mỹ, sinh năm 1972;

Trú tại: Khu 3, xã Hoàng Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Nhạc, 80 tuổi;

Trú tại: Khu 3, xã Hoàng Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

2. Anh Trần Văn Thủy, sinh năm 1961;

Trú tại: xã Đức Hòa, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội

3. Phòng Giao dịch xã Hoàng Xá, thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triên nông thôn huyện Thanh Thủy.

NHẬN THẤY

Anh Phạm Ngọc Tám và chị Phùng Thị Mỹ kết hôn năm 1992 trên cơ sờ tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào tháng 10/1992 tại UBND xã Hoàng Xá, huyện Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, đên năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Ngày 04/02/2009, anh Tám có đơn xin ly hôn với chị Mỹ .Chị Mỹ xin được đoàn tụ nhưng nếu anh Tám kiên quyết ly hôn thì chị chấp nhận.

Về con chung:

Anh chị có 02 con chung, là cháu Phạm Văn Toàn, sinh ngày 08/9/1993 và cháu Phạm Ngọc Thắng, sinh ngày 28/9/2001.

Anh Tám có nguyện vọng được nuôi cháu Toàn Chị Mỹ có nguyện vọng được nuôi hai con và yêu cầu anh Tám cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Nguyện vọng của cháu Toàn là được ở với mẹ .

Về tài sản:Tài sản hai vợ chồng thống nhất là tài sản chung, bao gồm: 01 nhà 02 tầng 98m2, 01 bếp, 01 công trình phụ; một số tài sản trong gia đình: 01 xe máy wave tàu; 01 tủ lạnh toshiba; 01 tivi; 01 bộ hát karaoke; 01 tủ bia; 02 tủ đứng; 01 bộ bàn ghế salông mút; 04 bộ bàn ghế cũ; 01 bàn xuân hòa; 01 giường; 02 đệm; 01 quạt cây; 01 quạt trần.

Về đất nông nghiệp: vợ chồng xác định có 2,5 sào đât nông nghiệp nhưng anh Tám và chị Mỹ đều thống nhất sẽ tự thỏa thuận .

Tài sản hai vợ chồng không thống nhất, bao gồm:

Theo chị Mỹ: tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm thửa đât 120m2 mà vợ chồng anh chị đang ở. Đất có nguồn gốc là của bố mẹ chồng chị; nhung năm 1995 thì bà Nguyễn Thị Nhạc, là mẹ anh Tám, đã bán cho vợ chồng chị với giá 5.000.000đ, có giấy tờ mua bán nhưng giấy tờ mua bán đã bị mât, giây bán chỉ có chữ ký của chị và bà Nhạc. Địa chính xã đã làm các thủ tục đo đạc nhưng chưa cấp GCN QSD đất; vì vậy, diện tích đât này là tài sản chung của vợ chồng chị.

Theo anh Tám: thửa đất 120m2 mà vợ chồng anh đang ở là của mẹ anh bà Nguyễn Thị Nhạc. Bà Nhạc không cho hay bán thửa đất này cho vợ chồng anh mà chỉ cho vợ chông anh mượn để ở .

Theo bà Nguyễn Thị Nhạc (mẹ anh Tám): Bà có thửa đât từ trước năm 1970. Đến năm 1995 bà cắt cho anh Tám chị Mỹ mượn để ở ,bà chưa bao giờ bán cho chị Mỹ, cũng chưa bao giờ tuyên bố cho anh Tám hay cho vợ chồng anh chị. Bà chỉ cho anh chị mượn đất để làm nhà .Năm 2003 anh chị làm nhà trên đất bà cho mượn, bà không có ý kiến gì vì bà nghĩ các con có tiền thì các con làm còn đất vẫn là của bà, nếu anh chị ly hôn thì anh chị phải trả lại đất cho bà.

Ly hôn, anh Tám đề nghị được ở trên ngôi nhà, còn các tài sản khác thì chia đôi, nếu anh được phần hơn thì anh sẽ thanh toán chênh lệch tài sản. Chị Mỹ đề nghị được ở ngôi nhà và nuôi con, xin được sử dụng bộ karaoke còn những tài sản khác đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

về công nợ: Công nợ hai vợ chồng thống nhất, bao gồm: Nợ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, phòng Giao dịch Hoàng Xá 10.000.000d.

Nợ hai vợ chồng không thống nhất, bao gồm:

Theo chị Mỹ, vợ chồng chị còn nợ anh Trần Văn Thủy ở Sóc Sơn, Hà Nội 7.000.000đ để mua bộ karaoke và nuôi con ăn học; trong đó, ngày 10/10/2008 âm lịch vay 5.000.000đ; ngày 10/3/2009 âm lịch vay 2.000.000đ. Chị đề nghị hai vợ chồng phải chịu trách nhiệm trả nợ.Theo anh Trần Văn Thủy: Anh cho chị Mỹ vay 2 lần, 1 lần (10/10/2008) là 5.000.000đ, 1 lần (10/3/2009) là 2.000.000đ, khi cho vay chỉ có mặt chị Mỹ không có mặt anh Tám, không phải yêu cầu trả lãi.

Đại diện ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh Hoàng Xá (ông Đinh Tiến Quát): Ngày 18/2/2008, anh Tám chị Mỹ có thế chấp Ngân hàng nhà xây mái bằng 60m2 và 120m2 đất thổ cư tại khu 3 để vay số tiền là 10.000.000d. số tiền nợ tính đến ngày 8/3/2010 là: 7.024.267đ, trong đó tiền gốc là 7.000.000đ và tiền lãi là 24.267đ.

Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 35/2009/HNGĐ-ST ngày 25/8/2009 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy quyết định: Xử cho anh Tám được ly hôn chị Mỹ;

Về con chung: Giao cho anh Phạm Ngọc Tám được trực tiếp nuôi cháu Phạm Ngọc Thắng sinh ngày 28/9/2001. Giao cho chị Phùng Thị Mỹ được trực tiếp nuôi cháu Phạm Văn Toàn sinh ngày 08/9/1993. Anh Tám và chị Mỹ không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền đi lại thăm năm con chung không ai được ngăn cấm.

Về tài sản chung: Xử giao anh Phạm Ngọc Tám được sở hữu: ,01 nhà 02 tầng trị giá 98.942.009đ; 01 nhà bếp, nhà vệ sinh, chuồng lọn, bể phốt: trị giá 4.800.000đ;01 tivi Belco 21 inch: 700.000đ; 01 tủ phooc: 500.000đ; 01 bộ bàn ghế sa lông mút: 700.000đ.

Anh Tám có trách nhiệm trả cho phòng giao dịch Hoàng Xá số tiền gốc vay: lO.OOO.OOOđ.Tổng cộng anh Tám còn được sở hữu: 95.642.009đ

Giao cho chị Phùng Thị Mỹ được sở hữu: 01 xe máy Wav tàu:2.500.000đ; 01 tủ lạnh Toshiba: 1.500.000, 01 bộ hát karaoke: 1.700.000đ 01 tủ gỗ: 500.000đ.Tổng cộng chị Mỹ được sở hữu: 6.200.000đ.Chị Mỹ phải trả cho anh Thủy 7.000.000đ.

Anh Tám có trách nhiệm thanh toán chênh lệch cho chị Mỹ là: 48.221.004đ.

Bác yêu cầu của chị Mỹ cho rằng thửa đất so 282D, tờ bản đồ so 1B, diện tích là 121,5m2 là đất thuộc quyền sở hữu chung vợ chồng.

Chị Mỹ được quyền lưu cư tại ngôi nhà trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 31/8/2009, chị Phùng Thị Mỹ có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung:

Về nuôi con: Chị đề nghị được nuôi hai cháu, nếu không chị xin được nuôi cháu Phạm Ngọc Thắng.

Về tài sản: Đề nghị định giá lại nhà đất, công trình phụ theo giá thị trường tự do, chị không thống nhất với giá mà hội đồng định giá đưa ra. Chị đã nộp tiền định giá nhưng không được khấu trừ.

Về đất: chị đề nghị xác định đây là tài sản chung vợ chồng và đề nghị cho chị được ở lại nhà đất để có chỗ ở và nuôi con .

Tại Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 53/2009/HNGĐ-PT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ quyết định: Hủy Bản án hôn nhân gia đìnhsơ thẩm số 35/2009/HNGĐ-ST ngày 25/8/2009 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy về chia tài sản chung và giao nuôi con chung sau ly hôn; giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Thanh Thủy xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 08/2010/HNGĐ-ST ngày 08/6/2010 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy quyết định: về con chung: Giao cho anh Phạm Ngọc Tám được trực tiếp nuôi cháu Phạm Ngọc Thắng, sinh ngày 28/9/2001. Giao cho chị Phùng Thị Mỹ trực tiếp nuôi cháu Phạm Văn Toàn ngày 08/9/1993. Anh Tám chị Mỹ không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được ngăn cấm.

Về tài sản chung: Xử giao anh Phạm Ngọc Tám được sở hữu: 01 nhà 02 tầng trị giá 118.332.000đ; Công trình phụ: 13.700.000đ; Cửa cổng sắt: 17.600.000d; Téc nước: 2.500.000đ; Hầm bioga: 10.000.000đ; 01 tivi Belco 21 inch: 700.000đ; 01 tủ phooc: 500.000đ; 01 bộ bàn ghế salong mút: 700.000đ; Tiền gốc ngân hàng chị Mỹ đã trả 1.500.000đ.Tổng cộng anh Tám còn được sở hữu: 165.532.000đ

Giao chị Phùng Thị Mỹ được sở hữu: 01 xe máy Wave Trung quốc: 2.500.000đ; 01 tủ lạnh Toshiba: 1.500.000đ; 01 bộ Karaoke: 1.700.000đ; 01 tủ gỗ: 500.000đ.Tổng cộng chị Mỹ được sở hữu: 6.200.000đ

Anh Tám có trách nhiệm thanh toán chênh lệch tài sản cho chị Mỹ là: 79.666.000đ

Anh Tám có trách nhiệm trả phòng giao dịch Hoàng Xá số tiền gốc vay: 7.000.000đ và tiền lãi từ 9/3/2010 đến khi trả nợ xong.

Chị Mỹ phải trả cho anh Trần Văn Thủy: 7.000.000đ

Bác yêu cầu của chị Mỹ về quyền sử dụng thửa đất so 282D, tờ bản đồ số 1B, diện tích là 121,5m2 vì thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của bà Nguyên Thị Nhạc.

Ngoài ra tòa án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 18/6/2010, chị Phùng Thị Mỹ có đơn kháng cáo Bản án sơ thâm vê phần tài sản.

Tại Bản án Hôn nhân gia đình phúc thẩm số 36/2010/HNGĐ-PT ngày 22/9/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã quyết định: Sửa bản án sơ thâm:

Về hình thức: Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của chị Phùng Thị Mỹ.

Về nội dung: Giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thấm số 08/2010/HNGĐ-ST ngày 8/6/2010 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ về phần giao nuôi con chung, chia tài sản chung và thanh toán công nợ.

Sửa một phần bản án sơ thẩm về phần thanh toán chênh lệch tài sản và quyền lưu cư.

Buộc anh Phạm Ngọc Tám phải có trách nhiệm thanh toán chênh lệch tài sản cho chị Phùng Thị Mỹ 100.000.000đ.

Chị Phùng Thị Mỹ được quyền lưu cư trong căn nhà trên đất đã giao cho anh Tám sở hữu và sử dụng trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Ngày 21/10/2010, chị Phùng Thị Mỹ có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thấm Bản án phúc thấm nêu trên.

Tại quyết định kháng số 265/2013/KN-HNGĐ-LĐ ngàỵ 15 tháng 7 năm 2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản án Hôn nhân gia đình phúc thẩm số 36/2010/HNGĐ-PT ngày 22/9/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng: Hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc thấm số 36/2010/HNGĐ-PT ngày 22/9/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ và Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 08/2010/HNGĐ-ST ngày 08/6/2010 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ về phần chia tài sản; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng nhất trí với kháng nghị của Chánh án tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Về thửa đất 121,5m2 thuộc thửa đất sổ 282D, tờ bản đồ số 1B xã Hoàng Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ:

Chị Phùng Thị Mỹ cho rằng thửa đất thuộc quyên sử dụng chung của vợ chồng chị. Năm 1995, mẹ chồng chị là bà Nguyễn Thị Nhạc đã bán thửa đât này cho chị với giá 5.000.000đ, giấy bán đã bị mất, giây bán chỉ có chữ ký của chị và bà Nhạc; cũng trong năm này, vợ chồng chị làm một căn nhà ngói ba gian trên diện tích đất này, đến năm 2003 thì xây nhà hai tâng một tum. Bà Nhạc và anh Tám cho rằng thửa đất này là của bà Nhạc, có nguôn gôc từ trước năm 1970, đến năm 1995 bà cắt đất cho các con mượn để ở chứ không có việc tặng cho hay mua bán. Bà đề nghị nếu anh Tám, chị Mỹ ly hôn thì trả lại đất cho bà; anh Tám cũng đề nghị xác định đây là đất của mẹ anh, không phải là tài sản chung của vợ chồng.

Xét thấy, anh Tám và chị Mỹ đã quản lý, sử dụng nhà câp 4 từ năm 1995. Trong quá trình sử dụng, anh chị đã hai lân xây nhà (năm 2003 xây nhà hai tâng một turn) và cũng đã thế chấp nhà đất để vay tiền Ngân hàng, sổ mục kê cũng ghi tên vợ chồng. Trong khoảng thời gian đó, bà Nhạc không sông chung với anh Tám, chị Mỹ, quá trình anh chị xây dựng nhà, bà biêt nhưng cũng không có ý kiến gì. Vì vậy, việc bà Nhạc cho rằng bà chỉ cho vợ chông anh Tám, chị Mỹ mượn thửa đất để làm nhà là không có căn cứ. Trong trường hợp này phải xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung của anh Tám, chị Mỹ. Tòa án câp sơ thẩm xác định thửa đất là tài sản của bà Nhạc là không đúng. Tòa án câp phúc thẩm nhận định: có thể coi mảnh đất trên thuộc quyền sử dụng chung của chi Mỹ và anh Tám xong cấp sơ thẩm cho rằng thửa đất trên thuộc quyên sử dụng của bà Nhạc là không phù họp, không đảm bảo quyền lợi của đương sự. Cấp phúc thẩm cần sửa một phần bản án sơ thẩm...”; và sau đó chia thêm cho chị Mỹ 20.000.000 đồng nhưng khi quyết định lại không xác định nhà, đât là tài sản chung vợ chồng là không đúng.

Ngoài ra, tại thời điểm xét xử, anh Tám và chị Mỹ đều có nhu cầu chia hiện vật là nhà đất nêu trên để on định cuộc sống. Tòa án cấp phúc thấm nhận định chị Mỹ chưa có chỗ ở nhưng không tiến hành xác minh làm rõ nhu cầu sử dụng nhà, đất của chị Mỹ cấp thiết như thế nào và nhà, đất có thể chia bằng hiện vật được không mà đã giao toàn bộ nhà, đất cho anh Tám sở hữu, sử dụng là chưa đảm bảo được quyền lợi cho các bên sau ly hôn.

Theo biên bản định giá ngày 07/5/2010 thì tổng giá trị tài sản của anh Tám và chị Mỹ là 502.382.000 đồng. Nhưng Tòa án cấp phúc thẩm chỉ chia cho chị Mỹ được hưởng giá trị là 100.000.000 đồng là không họp lý. Do nguồn gốc đất là của mẹ anh Tám, khi giải quyết lại vụ án phải xác định anh Tám có công sức nhiều hơn, từ đó phân chia cho họp lý, bảo đảm quyền lợi họp pháp của các bên.

Do đó Hội đồng xét xử giám đốc thẩm thấy kháng nghị của Chánh án tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ.

Bởi các lẽ trên; căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 36/2010/HNGĐ-PT ngày 22/9/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ và Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 08/2010/HNGD-ST ngày 08/6/2010 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ về phần tài sản đối với vụ án vụ án “Tranh chấp nuôi con và tài sản sau ly hôn” giữa nguyên đơn là anh Phạm Ngọc Tám và bị đơn là chị Phùng Thị Mỹ.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 21/2014/DS-GĐT ngày 20/01/2014 về việc tranh chấp nuôi con và tài sản sau ly hôn

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án