QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 33/2014/KDTM-GĐT NGÀY 31/07/2014 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

TÒA KINH TẾ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 31 tháng 7 năm 2014, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp đồng mua bỏn hàng hóa, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Hưoug, bà Phạm Thị yến, bà Nguyễn Thị Dung và bà Ngô Thị Luận; cùng trú tại: thôn 02, xã la Blang, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.

Bị đơn:  Bà Lê Thị Tá; trú tại: thôn 03, xã la Blang, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/5/2010 và lòi trình bày của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án thì thấy:

Ngày 03/5/2010, nguyên đơn (Bà Phạm Thị Hương, bà Phạm Thị Yến, bà Nguyễn Thi Dung và bà Ngô Thị Luận) mua 563kg hạt tiêu của bà Lê Thị Sự, mang về để ở nhà bà Hương. Ban đầu nguyên đơn định bán số tiêu trên cho bà Diệp Thị Thúy (trú tại thôn 3, xã IaBlang) với giá 59.000 đồng/kg nhưng với điều kiện bà Thúy phải trả hết cho nguyên đơn số tiền nợ cũ là 45.500000 đồng nhưng chờ đến tối ngày 3/5/2010 vẫn không thấỵ bà Thúy đến trả tiền nên sang ngày 4/5/2010 khi nguyên đơn vào nhà bà Tá để tìm bà Thúy lây tiên nhưng bà Thúy không có tiền và xin khất thì nguyên đơn bàn nhau về bán tiêu để lấy tiền trả cho bà Sự, bà Tá nghe thấy vậy nên đề nghị các bà bán lại với giá 59.000 đồng/kg và đến 18 giờ cùng ngày bà Tá thuê xe do ông Đỗ Văn Hưng làm tài xê, ông Bùi Ngọc Tuân bôc vác xuống nhà bà Hương chở tiêu đi, lúc bốc tiêu có mặt bà Phạm Thị An ở cùng thôn. Khi bốc tiêu lên xe, bà Tá có nói đi bán tôi sẽ về trả tiền nên không có làm giấy tờ gì. Nguyên đơn cho rằng bà Tá mua tiêu của nguyên đơn mà chưa thanh toán nên đã khởi kiện yêu cầu bà Tá phải thanh toán số tiền mua tiêu 33.217.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, phía nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu bà Tá phải trả cho nguyên đơn 563 kg hạt tiêu khô, tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 101.000đồng/kg, tổng cộng là 56.863.000 đồng (Tòa án quy đổi để tính tiền án phí).

Bà Tá thừa nhận bà có chở tại nhà bà Hương 09 bao tiêu nhưng là tiêu của bà Diệp Thị Thúy nhờ chở hộ đi bán, lúc chở có mặt của bà Thúy. Khi đi bán về bà đã đưa tiền cho bà Thúy. Tại thời điểm bốc, chở tiêu có mặt của ông Hưng lái xe, ông Tuấn bốc vác, theo lời khai của hai ông thì các ông không biết rõ việc mua bán tiêu nhưng ông Hưng cho biết “sau khi bốc tiêu tại nhà bà Hương xong thì bà Thúy có chạy ra xem một chút rồi đi đâu chứ không có đi ra Công ty” (BL114), ông Tuấn thì khai “Vào khoảng tháng 5/2010 tôi không nhớ rõ ngày, bà Lê Thị Tá trú tại thôn 3, xã IaBlang có gọi tôi đến bốc tiêu cho bà tại nhà bà Tá, sau đó bà Thúy nói xuống nhà bà Hương để chở tiêu ở nhà bà Hương” (BL 47, 115). Và tại theo lời khai của nguyên đơn thì cũng thừa nhận lúc bốc tiêu có mặt bà Thúy (BL 163).

Bà Tá cho biết theo thông lệ mua bán tại địa phương thì hàng ngày bà thu mua tiêu của rất nhiều người, do vậy nếu mua mà chưa thanh toán tiền thì bà phải ghi sổ hoặc giấy để lại cho người bán, việc ghi sổ phải thể hiện số lượng và giá cả để làm căn cứ khi thanh toán khỏi lẫn lộn sang người khác hoặc cãi vã giữa hai bên. Theo Biên Bản xác minh ngày 12/9/2011 của Tòa án nhân dân huyện Chư sê - tỉnh Gia Lai, thì Công ty Maxeco cho biết ngày 4/5/2010, Công ty có mua của bà Lê Thị Tá 2.661 kg tiêu với giá 58.796 đồng/kg. (BL 141) nhưng chỉ có phiếu nhập kho ghi chung không có của từng người. Bà Tá có xuất trình Giấy xác nhận kê khai chở hàng (BL 125) trong đó thể hiện ngày 4/5/2010 bà cũng thu mua của các hộ như Nguyễn Văn Thụy, trú tại thôn 3 xã IaBlang Chư sê, Lê Phước Tiến, trú tại thôn Vinh Hà xã IaBlang Chư sê và đã trả đủ tiền. Bà Tá không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Theo Biên bản xác minh ngày 13/5/2010, ông Nguyễn Minh Châu - Trưởng Công An xã la Blang cho biết bà Diệp Thị Thúy bỏ đi khởi địa phương khoảng tháng 7 năm 2010, không có có khai báo, không rõ đi đâu, khi nào vê, Chính quyền địa phương chỉ nghe thông tin bà Thúy đang bị tạm giam tại Công an thành phố Buôn Mê Thuột rồi sau đó được tại ngoại, chính quyền địa phương không nhận được thông báo văn bản gì về bà Thúy từ Buôn Mê Thuột và chưa thây bà Thúy có mặt tại địa phương.

Theo Biên bản xác minh ngày 20/9/2010, ông Nguyễn Minh Châu cho biết bà Diệp Thị Thúy hiện bà đang bị tạm giam tại Công an thành phố Buôn Ma Thuột về tội đánh bạc.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2011/KDTM-ST ngày 09/6/2011, Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai quyết định (tóm tắt):

Căn cứ khoản 3 Điều 25, điểm a khoản 1 Điều 29, khoản 1 Điều 131, Điêu 236 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 280, khoản 1 Điều 282; các Điều 290, 302,305 Bộ luật dân sự; các Điều 24, 34,37, 317 Luật thương mại, xử: Buộc bà Lê Thị Tá có nghĩa vụ trả cho các bà Phạm Thị Hương, Phạm Thị Yến, Nguyễn Thị Dưng và Ngô Thị Luận sổ lượng tiêu khô quy chuẩn là 563kg.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, về việc thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 13/6/2011, bà Lê Thị Tá kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 05/2011/KDTM-PT ngày 28/10/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị Tả và giữ nguyên Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm sổ 01/2011/KDTM-ST ngày 09/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Lê Thị Tá có nhiều đơn đề nghi xem xét lại bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu ừên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 75/2013/KDTM-KN ngày 02/12/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc ứiẩm số 05/2011/KDTM-PT ngày 28/10/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Hương, bà Phạm Thị Yến, bà Nguyễn Thị Dung và bà Ngô Thị Luận vói bị đơn là bà Lê Thị Tá.

Đe nghị Tồa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 05/2011/KDTM-PT ngày 28/10/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2011/KDTM-ST ngày 09/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Bản kết luận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 33/KL- VKSTC-V12 ngày 18/4/2014 và tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân tối cao đã nhất trí với Quyết định kháng nghị số 75/2013/KDTM-KN ngày 02/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Giữa hai bên không có hợp đồng mua bán tiêu bằng văn bản. Các nguyên đơn thì khai có quan hệ mua bán tiêu với bà Tá, bà Tá thi khai không có quan hệ mua bán gì với các nguyên đơn. Phía các nguyên đơn không có tài liệu chứng minh có việc mua bán tiêu với bà Tá, chỉ chứng minh được việc bà Tá đã nhận 09 bao tiêu tại nhà bà Hương đem đi bán; trong khi cả hai bên thừa nhận từ trước tới nay chưa từng có quan hệ mua bán gì với nhau. Bà Tá thì khai số tiêu này của bà Diệp Thị Thúy đã mua lại của các nguyên đơn và nhờ bà chở đi bán hộ nhưng cũng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh vì bà Diệp Thị Thúy đã đi khỏi địa phương.

Việc bà Diệp Thị Thúy đi khỏi địa phương đã gây khó khăn cho việc xác minh làm rõ thực chất các nguyên đơn mua bán tiêu với bà Thúy hay bà Tá. Tuy nhiên, theo Biên bản xác minh ngày 20/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh GiaLai thể hiện tại thòi điểm thụ lý, giải quyết vụ án này Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã biết bà Diệp Thị Thúy đang bị tạm giam tại Công an thành phố Buôn Ma Thuật, tỉnh Đăk Lăk nhưng đã không đi xác minh, lấy lời khai của bà Thúy tại Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Đối với vụ án này, lời khai của bà Diệp Thị Thúy có giá trị quyết định trong việc giải quyết vụ án đúng pháp luật. Tòa án cấp phúc'tíĩẩinTđã không phát hiện sai lầm này của Tòa án cấp sơ thẩm.

Theo trình bày của các nguyên đơn và bị đơn thì chứng kiến việc bốc tiêu hôm đó có bà Phạm Thị An, bà Diệp Thị Thúy; tham gia bốc và chở tiêu đi bán là ông Bùi Ngọc Tuấn và ông Đỗ Văn Hưng. Ông Tuấn và ông Hưng đã có lời khai về việc bốc và chở tiêu đi bán. Theo ông Bùi Ngọc Tuấn trình bày thì bà Thúy là người bảo ông Tuấn ra nhà bà Hương bốc 9 bao tiêu lên xe (BL 47,115). Còn ông Hưng cho biết “sau khi bốc tiêu tại nhà bà Hương xong thì bà Thúy có chạy ra xem một chút rồi đi đâu chứ không có đi ra Công ty” (BL114). Riêng bà An chưa được Tòa án lấy lời khai. Vì vậy, để có thêm căn cứ giải quyết vụ án, Tòa án cần phải lấy lời khai của bà An, ông Hưng, ông Tuấn về mối quan hệ giữa bà Thúy với các nguyên đơn; bà Thúy từ trước đến nay có quan hệ mua bán tiêu với các nguyên đơn không?; bà Thúy có tham gia việc giao nhận tiêu cho bà Tá không?...

Ngoài ra, theo bà Tá trình bày thì trong thời gian này bà thu mua tiêu của nhiều người, nếu mua tiêu mà chưa thanh toán tiền thì bà phải ghi vào sổ hoặc giấy biến nhận để lại cho người bán; trong đó, có ghi rõ số lượng và giá cả để làm căn cứ thanh toán... Đe chứng minh, bà Tá xuất trình Giấy xác nhận kê khai chở hàng (BL 125) trong đó thể hiện ngày 04/5/2010, bà thu mua tiêu của ông Nguyễn Văn Thụy (trú tại thôn 3, xã IaBlang Chư Sê) và ông Lê Phước Tiến (trú tại thôn Vinh Hà, xã IaBlang Chư Sê). Nhưng tại sao khi giao tiêu cho bà Tá, các nguyên đơn không yêu cầu bà Tá ghi giấy biên nhận cho họ như đối với những người khác, mà từ trước đến thời điểm đó họ không có quan hệ mua bán gì vói bà Tá, chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm làm rõ. cần lấy lời khai của các ông Nguyễn Văn Thụy và Lê Phước Tiên vê việc bán tiêu cho bà Tá; cần làm rõ tập quán mua bán tiêu tại địa phương để có thêm căn cứ giải quyết vụ án.

Do đó, Quyết định kháng nghị số 75/2013/KN-KDTM ngày 02/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ chấp nhận, cần hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm và bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm; giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011);

QUYẾT ĐỊNH

1. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 05/2011/KDTM-PT ngày 28/10/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2011/KDTM-ST ngày 09/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Hương, bà Phạm Thị Yến, bà Nguyễn Thị Dung và bà Ngô Thị Luận với bị đơn là bà Lê Thị Tá.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 33/2014/KDTM-GĐT về tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án