QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 34/2014/KDTM-GĐT NGÀY 31/07/2014 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

TÒA KINH TẾ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 31 tháng 7 năm 2014, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty TNHH Thiên Xứng; có trụ sở tại P501 Tòa nhà tuổi trẻ số 2 Trần Thánh Tông, thành phố Hà Nội; do ông Phạm Xuân Đạt đại diện theo Giấy ủy quyền số 01 ngày 09/4/2010 của Giám đốc Công ty;

Bị đơn: Công ty cổ phần xây dựng 71; có trụ sở tại số 24 Phan Bội Châu, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, do ông Võ Phi Hùng - Tổng giám đốc Công ty làm đại diện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Tổng Công ty Miền Trung-TNHH một thành viên; có trụ sở tại số 517 Trần Cao Vân, thành phố Đà Nẵng; do ông Nguyễn Văn Hội đại diện theo Giấy ủy quyền số 69 ngày 29/7/2010 của Tổng giám đốc Công ty

- Công ty cổ phần công nghiệp và phát triển xây dựng CuBic; có trụ sở tại số 383 Cánh Mạng Tháng Tám, quận cẩm Lệ, thành phố Đà Nang do bà Phan Thị Hằng Nga đại diện theo Giấy ủy quyền số 18 ngày 28/7/2010 của Tổng giám đốc Công ty.

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 9/6/2007 của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thì thấy:

Theo nguyên đơn - Công ty TNHH Thiên Xứng (sau đây gọi tắt là Công ty Thiên Xứng) và Công ty xây dựng 71 (nay là Công ty cổ phần xây dựng 71 theo Quyết định số 998/QĐ-BXD ngày 12/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng vê việc cổ phần hóa) có ký Hợp đồng kinh tế số 61 l/HĐKT/2003 ngày 24/7/2003 với nội dung (tóm tắt): Cong ty Thiên Xứng cung cấp cho Công ty xây dựng 71 gồm: các dây chuyền thiết bị đồng bộ sản xuất tấm trần nhựa; dây chuyển sản xuât ông nước PVC 0 76- 0 150 mm; dây chuyền thiết bị đồng bộ sản xuất phụ kiện PVC và các hệ thống điện động lực, hệ thống nước làm mát, hệ thống khí nén dùng, tổng giá trị hợp đồng là 212.304 USD; Địa điểm giao hàng tại nhà máy sản xuât tấm trần nhựa Cosevco 71, xã Nghi Phú, thành phô Vinh, tỉnh Nghệ An, thời gian giao hàng là 45 ngày; thời gian đưa dây chuyên vào hoạt động là 90 ngày kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực.

Quá trình thực hiện hợp đồng, tại Biên bản nghiệm thu hoàn thành hạng mục công trình để đưa vào sử dụng ngày 22/9/2004: Hội đồng nghiệm thu đã xác nhận các hạng mục bao gồm: về số lượng, chất lượng, kỹ thuật kết quả đúng theo họp đồng, về tiến độ thực hiện hợp đồng đôi với thời gian thi công hoàn thành bàn giao công trình đưa vào sử dụng thì Công ty Thiên Xứng chậm là 290 ngày, trong đó nguyên nhân chậm do Ban quản lý dự án (Công ty xây dựng 71) là 200 ngày, chậm do Nhà thầu (Công ty Thiên Xứng) là 90 ngày.

Ngày 9/10/2004, Công ty xây dựng 71 có Công văn số 678/CTXD-DA, đề nghị Công ty Thiên Xứng hoàn thiện hồ sơ để hai bên cùng thanh lý hợp đồng.

Đến ngày 12/5/2005, Công ty Xây dựng 71 thuộc Tổng công ty Xâỵ dựng Miền Trung được chuyển đổi thành Công ty cổ phần xây dựng 71 theo Quyết định số 998/QĐ-BXD của Bộ trưởng Bộ xây dựng; theo quyết định này thì Công ty cổ phần xây dựng 71 có tư cách pháp nhân, thực hiện chế độ hạch toán độc lập, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Ngân hàng theo quy định của pháp luật.

Theo đó, ngày 16/5/2005, Tổng Công ty xây dựng Miền Trung có Công văn số 09/CV/TCT về việc...đề nghị Công ty xây dựng 71 xem xét thanh lý hợp đồng kinh tế số 61 l/HĐKT/2003 ngày 24/7/2003 và thanh lý dứt điểm cho Công ty Thiên Xứng...có gì vướng mắc báo cáo về Tổng Công ty có hướng chỉ đạo.

Tại Biên bản làm việc ngày 14/11/2005, Công ty Thiên Xứng và Công ty cổ phần xây dựng 71 cùng xác nhận: “Hợp đồng kinh tế số 61 ỉ/HĐKT/2003, Công ty Thiên Xímg đã thực hiện xong trách nhiệm cung câp. Tuy nhiên, việc thanh toán cho hợp đồng chưa được thực hiện và không được Công ty xây dựng 71 xác định trong giá trị Doanh nghiệp khi thực hiện công tác cổ phân hóa Công ty co phần xây dựng 71 ghi nhận việc này và hai bên cùng hợp tác giải quyết... nếu không thực hiện được hai bển sẽ mời cơ quan chủ quản của Công ty xây dựng 71 cũ cùng giải quyết”.

Theo Biên bản bàn giao ngày 01/11/2006, giữa Tổng Công ty xây dựng Miền Trung, Công ty xây dựng 71 và Công ty cổ phần xây dựng 71, tại Mục’‘Chi tiết tài sản cố định được tính vào giá trị doanh nghiệp bàn giao cho Công ty cố phần”, “Chi tiết nợ phải trả được tính vào giá trị doanh nghiệp bàn giao cho Công ty cổ phan.

Do Công ty xây dựng 71 (nay là Công ty cổ phần xây dựng 71) chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Thiên Xứng theo Hợp đồng số 61 l/HĐKT/2003 ngày 24/7/2003, nên Công ty Thiên Xứng khởi kiện đề nghị Tòa án buộc Công ty xây dựng 71 nay là Công ty cổ phần xây dựng 71 phải thanh toán trả cho Công ty Thiên Xứng giá trị hợp đồng là 212.304 USD và lãi suất nợ quá hạn theo quy định của Ngân hàng nhà nước từ ngày 30/10/2004 đến nay.

Theo bị đơn - Công ty cổ phần xây dựng 71 trình bày: Căn cứ vào Hợp đồng kinh tế số 61 l/HĐKT/2003 ngày 24/7/2003, thì Công ty Thiên Xứng phải hoàn thành bàn giao hàng là ngày 5/12/2003 nhưng theo Biên bản nghiệm thu thì ngày 21/9/2004 Công ty Thiên Xứng mới hoàn thành bàn giao, tức là chậm 290 ngày. Do việc chậm trễ này mà Ngân hàng tài trợ vốn đã cắt tài trợ vốn cho Công ty xây dựng 71, dù Công ty xây dựng 71 đã nỗ lực đàm phán với Ngân hàng. Từ những nguyên nhân đó, trên tinh thần hợp tác Công ty xây dựng 71 đã có văn bản đề nghị Công ty Thiên Xứng thu hồi thiết bị của mình chứ không áp dụng hình thức phạt vi phạm hợp đồng. Khi cổ phần hóa, tài sản có từ Hợp đồng số 611 này không được Công ty xây dựng 71 bàn giao cho Công ty cổ phần xây dựng 71. Do vậy, không thuộc tài sản của Công ty cổ phần xây dựng 71. Cho nên, Công ty cổ phần xây dựng 71 không phải thanh toán và yêu cầu Công ty Thiên Xứng nhận lại tài sản.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Theo Tổng công ty xây dựng Miền Trung trình bày: Hợp đồng số 611/HĐKT/2003 ngày 24/7/2003 ký giữa Công ty xây dựng 71 và Công ty Thiên Xứng là sự ký kết giữa hai Công ty có tư cách pháp nhân. Hợp đồng này ký trước ngày 31/12/2003, thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp chưa hoàn thành, do vậy tại thời điểm ngày 31/12/2003 các tài sản trong Hợp đồng số 61 l/HĐKT/2003 ngày 24/7/2003 chưa được đưa vào tài sản cổ phần hóa để tính giá trị doanh nghiệp, nhưng đến ngày 31/5/2006 các tài sản trên được đưa vào cổ phần hóa. Theo Biên bản bàn giao Doanh nghiệp ngày 01/11/2006 giữa Công ty xây dựng 71 và Công ty cổ phần xây dựng 71 có nêu bàn giao toàn bộ các dự án dở dang cho Công ty cổ phần xây dựng 71, trong đó có 03 dây chuyền trong Hợp đồng số 611 ngày 24/7/2003. Đồng thời Công ty cổ phần xây dựng 71 có văn bản chấp nhận các dây chuyền thiết bị trong Hợp đồng 611. Sau khi cổ phần hóa thì trách nhiệm thuộc về Công ty cổ phần xây dựng 71.

Theo Công ty cổ phần công nghiệp và phát triển xây dụng CuBic (sau đây gọi tắt là Công ty xây dựng CuBic): Tài sản là ba dây chuyền theo Hợp đồng 611 ngày 24/7/2003, Công ty xây dựng CuBic không nhận bàn giao tài sản này nên không biết trách nhiệm thuộc về ai. Ba dây truyền trên hiện đang nằm tại nhà máy sản xuất tấm nhựa tại Chi nhánh Nghệ An thuộc Công ty xây dựng CuBic. Hiện không ai quản lý, bảo quản. Các thiết bị trên, Công ty yêu cầu Tòa án xác định công ty nào có trách nhiệm tháo dỡ các tài sản trên để trả lại mặt bằng cho Công ty xây dựng CuBic.

Tại Bản án kinh doanh, thuơng mại sơ thẩm số 06/2010/KDTM-ST ngày 29/7/2010, Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Buộc Tổng Công ty Miền Trung- TNHH một thành viên phải có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH Thiên Xứng số tiền 6.253.554.728 đồng. Trong đó tiền nợ gốc là 3.818.701.200 đồng, tiền lãi tính đến ngày 29/7/2010 là 2.434.853.528 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 30/7/2010, Tổng Công ty Miền Trung có đơn kháng cáo bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm nêu trên với lý do: Công ty Thiên Xứng khởi kiện Công ty cổ phần xây dựng 71, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại buộc Tổng Công ty Miền Trung trả nợ là không đúng, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ quyết định của bản án sơ thấm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 07/2010/KDTM-PT ngày 29/11/2010, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nằng đã quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của Tổng Công ty Miền Trung, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Tổng Công ty Miền Trung có đơn đề nghị kháng bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm với lý do: Tổng Công ty Miền Trung không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án và không phải là người chịu trách nhiệm thanh toán tiền cho Công ty Thiên Xứng.

Tại Quyết định kháng nghị số 74/2013/KDTM-KN ngày 24 tháng 11 năm 2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 07/2010/KDTM-PT ngày 29/11/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nang. Đe nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 06/2010/KDTM-ST ngày 29/7/2010 của Tòa án nhân dân quận cẩm Lệ, thành phố Đà Nang; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Ngày 24/7/2003, giữa Công ty Thiên Xứng và Công ty xây dựng 71 (nay là Công ty cổ phần xây dựng 71 theo Quyết định số 998/QĐ-BXD ngày 12/5/2005 của Bộ trưởng Bộ xây dựng về việc cổ phần hóa) có ký Hợp đồng kinh tế số 611/HĐKT/2003 và kèm theo các phụ lục hợp đồng về việc cung cấp các dây chuyền thiết bị đồng bộ sản xuất tấm trần nhựa; dây chuyển sản xuất ống nước PVC 0 76- 0 150 mm; dây chuyền thiết bị dồng bộ sản xuất phụ kiện PVC và các hệ thống điện động lực, hệ thống nước làm mát, hệ thống khí nén dùng cho các dây chuyền trên, tổng giá trị hợp đồng là 212.304 USD; thời gian giao hàng là 45 ngày; thời gian đưa dây chuyền vào hoạt động là 90 ngày kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực.

Quá trình thực hiện hợp đồng, theo Biên bản nghiệm thu ngày 22/9/2004, Hội đồng nghiệm thu xác nhận: về số lượng, chất lượng, kỹ thuật kết quả đúng theo hợp đồng, về tiến độ thì Công ty Thiên Xứng chậm là 290 ngày, trong đó nguyên nhân chậm do Ban quản lý dự án (Công ty xây dựng 71) là 200 ngày, chậm do Nhà thầu (Công ty Thiên Xứng) là 90 ngày.

Sau khi nghiệm thu, Công ty xây dựng 71 không thực hiện việc thanh lý hợp đồng và thanh toán tiền cho Công ty Thiên Xứng; mặc dù Công ty Thiên Xứng đã có nhiều văn bản (vào các ngày 03/01/2005; 18/4/2005; 06/5/2005; 15/5/2005; 30/6/2005) đề nghị thanh lý hợp đồng và thanh toán công nợ.

Tuy nhiên, tại Quyết định số 998/QĐ-BXD ngày 12/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng thì Công ty Xây dựng 71 thuộc Tổng công ty Xây dựng Miền Trung là Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa thành Công ty cổ phần Xây dựng 71, theo quyết định này thì Công ty cồ phần xây dựng 71 có tư cách pháp nhân, thực hiện chế độ hạch toán độc lập, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Ngân hàng theo quy định của pháp luật. Tại thời điểm tiến hành cổ phần hóa thì Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngàỵ 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển Công ty nhà nước thành Công ty cổ phần đang có hiệu lực thi hành. Theo quy định tại khoản 2 Điêu 8 Nghị định số 187 thì: “Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã cổ phần hóa để to chức sản xuất, kinh doanh; kế thừa mọi quyển lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của Công ty nhà nước trước khi cỗ phân hóa và có các quyên, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật Như vậy, Công ty cô phân xây dựng 71 kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của Công ty xây dựng 71.

Tại Biên bản bàn giao giữa Tổng Công ty xây dựng Miền Trung, Công ty xây dựng 71 và Công ty cổ phần xây dựng 71 vào ngày 01/11/2006, tại Phụ lục số 01 “Chi tiết tài sản cố định được tính vào giá trị doanh nghiệp bàn giao cho Công ty cô phân (thời diêm tính đến ngày 31/5/2005) kèm theo Biên bản bàn giao Doanh nghiệp Nhà nước Công ty xây dựng 71 sang Công ty cổ phần xây dựng 71 ngày 01.11.2006 thê hiện: có nhà máy sản xuất tấm trần nhụa (phần mở rộng) và dây chuyển sản xuất tấm trần nhựa; tại Bảng xác định giá trị Công ty cổ phần xây dựng 71 (đến 31.5.2005) thì có: Máy móc thiết bị là dây chuyền sản xuất trần nhựa Cosevco.

Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thâm buộc Tông Công ty Miên Trung phải chịu trách nhiệm thanh toán cho Công ty Thiên Xứng là không đúng. Do đó, cần phải xác minh làm rõ có việc Công ty cổ phần xây dựng 71 tách ra thành hai Công ty hay không? Trong hồ sơ có nhiều tài liệu thể hiện Công ty cổ phần xây dựng 71 chỉ góp vốn vào Công ty cổ phần công nghiệp và phát triển xây dựng CuBic (sau đây viết tắt là Công ty CuBic) (BL: 475, 476, 474, 493). Nhưng cũng có biên bản ghi lời khai, lãnh đạo Công ty CuBic lại khai Công ty CuBic được tách ra từ Công ty cổ phần xây dựng 71. Trong khi hồ sơ thành lập Công ty Cubic (như Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Điều lệ Công ty) chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm thu thập, xác minh làm rõ.

Sau khi xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các vấn đề nêu trên, nếu có đủ căn cứ xác định Công ty cổ phần xây dựng 71 được tách ra thành Công ty cổ phần xây dựng 71 và Công ty CuBic; Công ty cổ phần xây dựng 71 góp vốn thành lập Công ty CuBic thì căn cứ Luật doanh nghiệp để xác định trách nhiệm trả nợ thuộc về công ty nào.

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011);

QUYẾT ĐỊNH

1.   Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 07/2010/KDTM-PT ngày 29/11/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nằng và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 06/2010/KDTM-ST ngày 29/7/2010 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng; giữa nguyên đơn là Công ty TNHH Thiên Xứng và bị đơn là Công ty cổ phần xây dựng 71.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 34/2014/KDTM-GĐT về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án