QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 36/2014/DS-GĐT NGÀY 24/01/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 24/01/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lưu Thị Ảnh, sinh năm 1948; trú tại số 01/01 Hùng Vương, khóm 4, phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; do ông Lưu An Thống, sinh năm 1959; trú tại khóm 6, thị trấn Cái Đôi Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau đại diện (Văn bản ủy quyền ngày 12/6/2006).

Bị đơn: Ông Võ Thanh Hùng, sinh năm 1963; trú tại số 99 Cao Thắng, khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phùng Lệ Thủy, sinh năm trú tại số 99 Cao Thắng, khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Theo Quyết định kháng nghị số 527/2013/KN-DS ngày 11/11/2013 của án Tòa án nhân dân tối cao đối vói Bản án dân sự phúc thẩm số 223/2010/DS- ngày 23/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện ngày 05/10/2005 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Lưu Thị Ảnh, đại diện theo ủy quyền của bà Ảnh là ông Lưu An Thống trình bày: Năm 1959, cụ Lưu Tấn Quang mua 02 mẫu 98,08 đất tại khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau. Khi mua bán có làm giấy và được chính quyền chế độ cũ xác nhận. Năm 1976, cụ Quang đã bán đất cho nhiều người. Năm 1986,Sở Xây dựng quy hoạch nơi này làm Khu công nghiệp trong đó có phần đất còn lại của cụ Quang. Ngày 01/5/1986, cụ Quang đã làm Bảng kê khai để đền bù, có ghi: một nền nhà 63m2; diện tích ao hồ 32m2; đất ruộng 12.960m2; xin lại 1.000m2 trong khu quy hoạch. Sở Xây dựng đền bù 12.960m2 và chấp thuận để lại 1.000m2 cho cụ Quang làm đất thổ cư. Sau khi nhận tiền đền bù xong gia đình về Năm Căn làm ăn, phần đất Sở Xây dựng để lại cụ Quang gửi cụ Lê Thanh Tùng trông coi. Khi gửi đất cụ Quang có nói: sau này sẽ cho cụ Tùng một chỗ để ở, việc gửi đất chỉ nói miệng. Năm 1995, khu đất này không quy hoạch làm Khu công nghiệp mà giao cho Công ty phát triển nhà Minh Hải quy hoạch làm Khu dân cư. Công ty tiến hành đo đạc quy hoạch toàn bộ kể cả phần đất cụ Quang đã chuyển nhượng, đất đã được đền bù (vì cụ Quang là người đứng tên trong giấy tờ), sau khi đối trừ đất chuyển nhượng, đất đã đền bù thì phần đất của cụ Quang còn lại là 3.159m2. Phần đất này nằm trong khu quy hoạch nên Công ty tiến hành thu hồi và đền bù. Do có tranh chấp với ông Hùng nên Công ty chỉ đền bù 2.018m2 đất, phần còn lại 1.141m2 chưa được Công ty đền bù. Cụ Quang đã yêu cầu ông Hùng trả đất. Ban đầu ông Hùng thỏa thuận trả 05 chỉ vàng, nhưng sau đó lại thay đôi ý kiên. Do thỏa thuận không thành, cụ Quang đã gửi đơn đòi đất nhưng ông Hùng vẫn đắp nền cất nhà trên đất tranh chấp vào năm 1996. Năm 1997, cụ Quang chết; mẹ và các anh em trong gia đình ủy quyền cho bà Ảnh toàn bộ phần đất này. Nay bà Ảnh yêu cầu ông Hùng trả lại diện tích đất nêu trên cho bà.

Bị đơn - ông Vố Thanh Hùng trình bày: Phần đất hiện nay ông đang sử dụng có nguồn gốc của cha ông là cụ Võ Văn Dẩu mua của cụ Phạm Minh Chính - tức Tư Mì (nguyên là Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Minh Hải - Phó ban nội chính Tỉnh ủy) vào năm 1986. Việc mua bán có lập giấy tờ được chính quyền địa phương xác nhận và đã sử dụng đất cho đến nay. Năm 1994, cụ Dẩu đã cho ông diện tích này. Ông không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Phùng Thị Thủy trình bày: Bà là vợ của ông Hùng, bà đồng ý với lời trình bày và yêu cầu của ông Hùng.

Vụ án này đã được Tòa án các cấp giải quyết nhiều lần, cụ thể như sau:

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 118/2006/DS-ST ngày 31/5/2006, Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau quyết định:

Bác toàn bộ yêu cầu của bà Lưu Thị Anh kiện đòi ông Võ Thanh Hùng phần đất có kích thước ngang 14m, dài một cạnh 81m, một cạnh 82m tọa lạc tại khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 05/6/2006 và ngày 12/6/2006, bà Anh có đơn kháng cáo và đơn kháng cáo bổ sung Bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 317/2006/PTDS ngày 18/9/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bà Lưu Thị Ảnh, giữ nguyên bản án dân sơ thẩm. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Tại quyết định kháng nghị số 516/2009/KN- DS ngày 14/9/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản án phúc thẩm nêu trên. Đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm xử hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 118/2006/DS-ST ngày 31/5/2006 của Tòa án nhân dân thành phố cà Mau, tỉnh Cà Mau; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử lại theo quy định của pháp luật.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 622/2009/DS-GĐT ngày 17/12/2009, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận Quyết định kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2010/DS-ST ngày 26/8/2010, Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau quyết định; Không chấp nhận yêu cầu của bà Lưu Thị Anh về việc buộc ông Võ Thanh Hùng phải giao trả lại bà 1.141m2 đất tọa lạc tại khoản 7, phường 8, thành phố Cà Mau.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 07/9/2010, bà Ảnh có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 223/2010/DS- PT ngày 23/12/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định:

Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Lưu Anh Thống.

Sửa Bản án sơ thẩm số 124/2010/DS-ST ngày 26/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.

Tuyên xử: Buộc ông Võ Thanh Hùng, bà Phùng Lệ Thủy trả cho bà cho Lưu Thị Ảnh 1.141,2m2 đất (có tứ cận).

Buộc ông Hùng, bà Thủy và gia đình tháo dỡ nhà trả lại đất cho bà Ảnh và các đương sự có nghĩa vụ đến cơ quan có thấm quyền ở thành phố Cà Mau làm quyền sử dụng đất cho bà Lưu Thị Ảnh.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm Hội đồng nhân dân tỉnh Cà Mau có Công văn số 76/HĐND-PC ngày 16/4/2012 kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét Bản án dân sự phúc thẩm số 223/2010/DS-PT ngày 23/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau theo trình tự giám đốc thẩm (gửi kèm đơn đề nghị giám đốc thẩm với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên của ông Võ Thanh Hùng).Tại Quyết định kháng nghị số 527/2013/KN-DS ngày 11/11/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 223/2010/DS-PT ngày 23/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau. Đe nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 24/01/2014, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc thấm chấp nhận Quyết định kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiếm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì năm 1986, Sở Xây dựng tỉnh Minh Hải (nay là tỉnh Cà Mau) quy hoạch đất của cụ Lưu Tấn Quang (cha của bà Lưu Thị Anh và ông Lưu An Thống, cụ Quang chết năm 1997) để làm khu công nghiệp. Cụ Quang làm “Bản kê khai” để đền bù ngày 15/5/1986 (BL136) có ghi: một nền nhà 63m2, diện tích ao hồ 32m, đất ruộng 12.960m2; trên “Bảng kê khai” có ghi “xin lại 1000m2 trong quy hoạch”.

Theo trình bày của bà Anh và ông Thống thì sau khi nhận đền bù, cụ Quang đi nơi khác làm ăn, gửi lại đất cho cụ Lê Thanh Tùng trông coi nhưng không biết lý do gì mà ông Võ Thanh Hùng chiếm giữ và sử dụng cho đến nay nên yêu cầu ông Hùng trả lại đất.

Bị đơn là ông Võ Thanh Hùng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn mà cho rằng diện tích đất gia đình ông đang sử dụng là do cụ Lê Thanh Tùng (Sáu Tùng) chuyển nhượng cho cụ Phạm Minh Chính. Cụ Chính chuyển nhượng cho cụ Võ Văn Dẩu (tên thường gọi là cụ Năm Dẩu, cha của ông) vào năm 1986 và gia đình ông Hùng san lấp đất trũng làm nhà và sử dụng đất ổn định từ đó đến nay.

Căn cứ hồ sơ vụ án thấy rằng, mặc dù ông Hùng không xuất trình được văn bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ Quang và cụ Tùng nhưng lúc cụ Tùng còn sống, cụ Quang và các con của cụ Quang không đòi phần đất này. Cụ Tùng chết năm 1995, vợ con của cụ Tùng là bà Nguyễn Thị Tình và chị Lê Thị Bích Ngân đã trình bày tại Giấy xác nhận ngày 07/01/1995 (BL216- của bà Tình), Giấy ngày 11/8/2010 (BL 256-của chị Ngân), theo đó diện tích đất ông Hùng đang sử dụng là do cụ Tùng mua của cụ Quang (cụ Tư Chúa), sau đó cụ Tùng chuyển nhượng đất cho cụ Chính.

Tại Đơn đề ngày 10/11/2006 (BL220+221), cụ Huỳnh Thị Chừng (vợ cụ Chính) cho rằng gia đình cụ Chính không có tiền để mua phần đất nào khác ngoài phần đất đang ở nên không có đất để bán cho cụ Dẩu. Giấy tờ mà cụ Dẩu và ông Hùng dùng làm chứng cứ là do cụ Dẩu lập sẵn đơn xin chuyển quyền sử dụng đất, xin chữ ký của cụ Chính vào khoảng tháng 8 năm 1994 để hợp thức hóa... Người làm chứng là ông Nguyễn Thanh Triều (BL132) xác nhận rằng năm 1986 cụ Quang tạm giao cho cụ Tùng một công đất tạm thời làm nhà ở, khi cụ Quang cần sẽ thu hồi lại; còn ông Nguyễn Văn Ba (BL59) trình bày năm 1986 cụ Quang gửi đất cho cụ Tùng trông coi khi gia đình cụ Quang đi làm ăn xa, không mua bán sang nhượng cho cụ Sáu Tùng, cụ Sáu Tùng nghèo, không có đất đế ở nên cụ Quang có ý giúp đỡ cho cụ Sáu Tùng.

Khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào lời khai của cụ Huỳnh Thị Chừng, ông Nguyễn Thanh Triều, ông Nguyễn Văn Ba để xác định đất tranh chấp là của cụ Quang gửi ông Tùng trông coi là chưa xem xét toàn diện các tài liệu, chứng cứ bởi tại Giấy nhượng đất ngày 17/8/1986 (BL92) có nội dung: cụ Tùng chuyển nhượng cho cụ Chính đất có nguồn gốc cụ Tùng nhận của cụ Tư Chúa (tức cụ Quang) và ngày 18/8/1986, cụ Chính đồng ý chuyển nhượng lại đất cho cụ Dẩu. Sau này, gia đình ông Hùng làm thủ tục kê khai có làm “Đơn xin chuyển quyền sử dụng đất ngày 18/8/1986” (BL194+195) và được chính quyền xác nhận ngày 22/8/1994. Hơn nữa, tại Biên bản xác minh nguồn gốc hiện trạng đất đai ngày 16/9/1994 có chữ ký của cụ Dẩu, ông Nguyễn Thanh Triều và đại diện chính quyền địa phương (BL198) có ghi: diện tích đất 1.350m2, thửa số 688, tờ bản đồ số 2, trước đây của cụ Tư Chính nhượng lại từ cụ Lê Thanh Tùng. Năm 1986, cụ Tùng nhượng lại cho cụ Chính, cụ Chính chuyển nhượng lại cho cụ Dẩu.

Như vậy, tuy nguyên đơn có đưa ra chứng cứ để chứng minh việc cụ Quang gửi đất cho cụ Tùng nhưng lời khai đó mâu thuẫn với những chứng cứ khác, lời khai của ông Triều mâu thuẫn với việc ông Triều ký tại Biên bản xác minh nguồn gốc hiện trạng đất đai ngày 16/9/1994 nên chưa đủ cơ sở để xác định diện tích đất ông Hùng đang sử dụng là của cụ Quang.

Mặt khác, sau khi Bản án dân sự phúc thẩm số 223/2010/DS-PT ngày 23/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau có hiệu lực, Sở Xây dựng có Công văn số 413/SXD-KTQHXD ngày 14/7/2011 phúc đáp Công văn số 13/PC68 ngày 26/6/2011 của Phòng Cảnh sát đường thủy (Công an tỉnh Cà Mau) có nội dung: Năm 1990, Sở Xây dựng có thông báo việc đăng ký lại danh sách các hộ được Ban quản lý công trình xây dựng thuộc Uy ban xây dựng cơ bản Minh Hải cấp đấtđể lập hồ sơ quản lý cấp đất nhưng không có tên ông Lưu Tấn Quang đăng ký cấp lại... Như vậy, phần đất tranh chấp là đất ruộng, gia đình cụ Quang không sử/ dụng từ năm 1986 và không đăng ký kê khai nên theo quy định của Luật đất đai thì gia đình cụ Quang đòi lại đất nông nghiệp đã không sử dụng từ năm 1986 đến nay là không có cơ sở, cho nên Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Anh là chưa đủ căn cứ.Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

- Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 527/2013/KN-DS ngày 11/11/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 223/2010/DS-PT ngày 23/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Lưu Thị Ảnh với bị đơn là ông Võ Thanh Hùng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phùng Lệ Thủy.

- Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 36/2014/DS-GĐT về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English