QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 40/2014/DS-GĐT NGÀY 18/02/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên toà ngày 18/022014 tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng dân sự”. Do có kháng nghị số 563/2013/KN-DS ngày 16/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 191/2011/DSPT ngày 11/8/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Hồng Thị Chiến, sinh năm 1968; trú tại tổ 2, ấp Thạch Quới, xã Thạch Đông, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

Bị đơn: Bà Phạm Thi Ngọc, sinh năm 1973; trú tại số 225 Nguyễn Hồng Đào, phường 14, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Theo đom khởi kiện ngày 19/11/2009 và trong quá trình tố tụng nguyên đom là bà Hồng Thị Chiến trình bày:

Ngày 31/8/2009 bà có vay của bà Phạm Thị Ngọc số tiền là ltỷ đồng, hai bên thỏa thuận lãi xuất 4%/tháng, số tiền vay bà Ngọc giao cho bà 2 lần, cụ thể :

- Lần thứ nhất vào sáng ngày 31/8/2009 bà Ngọc chuyển vào tài khoản của bà tại Ngân hàng Agri-Banhk chi nhánh Hòa Thành số tiền là 500.000.000 đ.

- Lần thứ hai vào chiều ngày 31/8/2009 bà nhận trực tiếp tại nhà bà Ngọc (số 104 khu phố 2, cửa 4 thị trấn Hòa Thành, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh) số tiền là 460.000.000đ, lý do bà chỉ nhận 460.000.000d là do bà Ngọc đã trừ 40.000.000đ một tháng tiền lãi trước.Tổng số tiền bà nhận của bà Ngọc là 960.0000.0000 đồng.

Để đảm bảo cho số tiền vay trên, ngày 31/8/2009 bà Ngọc buộc bà phải ra công chứng Gò Dầu để làm hợp đồng mua bán đất và tài sản trên đất» với giá 1.000.000.000 đồng. Nhưng thực tế hợp đồng chuyển nhượng này để đảm bảo cho khoản vay 1.000.000.000 đồng với lãi suất 4%/tháng giữa bà và bà Ngọc.

Sau đó bà đã lãi tiếp tháng thứ hai cho bà ngọc là 40.000.000 nữa. Cụ thể : Ngày 5/10/2009 trả 20.000.000đ và ngày 16/10/2009 trả 20.000.000đ tại nhà mẹ bà Ngọc do chị Thuần là cháu của bà Ngọc ký nhận.

Ngày 01/11/2009, bà nhờ ông Dũng gửi cho bà Luông 20.000.000 đồng đế trả lãi cho bà Ngọc.

Ngày 16/11/2009 bà gửi anh Dũng thêm 20.000.000 đồng chuyển cho bà Luông nhưng bà Luông không làm giấy nhận tiền nên không gửi được.

Ngày 17/11/2009, bà đến Ngân hàng chuyển tiền lãi cho bà Ngọc, nhưng tài khoản bị khóa. Bà đến nhà bà Ngọc trả tiền lãi thì được biết bà Ngọc đã làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nên bà không trả tiền lãi. Tổng số tiền lãi bà đã trả bà Ngọc 100.000.000 đồng. Từ tháng 11/2009 đến nay bà không trả lãi và khoản tiền gốc 1.000.000.000 đồng cho bà Ngọc.

Thực chất việc giao dịch giữa bà với bà Ngọc là hợp đồng vay tài sản, có trả lãi, nhưng bà ngọc đã lợi dụng họp đồng có công chứng để chuyển quyền sử dụng đất nhằm chiếm đoạt tài sản của bà. Nay bà yêu cầu hủy họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa bà với bà Ngọc với diện tích 1.055m2 đất thổ cư và 62.169m2 đất trồng cây cao su trong 8 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà đã thế chấp cho bà Ngọc. Bà đồng ý trả cho bà Ngọc số tiền vay là 1.000.000.000 đồng nhưng yêu cầu xem xét lại tiền lãi. Ngoài ra bà không yêu càu gì khác.

Bị đơn là bà Phạm Thị Ngọc trình bày:

Ngày 31/8/2009, bà có ký kết 02 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhận chuyển nhượng của bà Chiến tổng cộng 63.244,10m2 trong đó đất thổ cư là 1.055,10m2, còn lại 62.169m2 đất rẫy, đất cây lâu năm có cây cao su và 01 họp đồng mua bán đất và tài sản trên đất viết tay theo 08 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà Chiến giao cho bà.

Do đất này không liên ranh nhau mà nằm ở nhiều nơi nên bà chỉ đồng ý chuyển nhượng với giá 1.000.000.000 đồng. Hai hợp đồng chuyển nhượng đã được công chứng tại phòng công chứng số 2 tỉnh Tây Ninh, trụ sở huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh. Ngoài ra, bà Chiến còn giao cho bà 01 giấy ủy quyền tài sản của chồng bà Chiến cho bà Chiến được tự quyền định đoạt tài sản, khi nào sang tên xong bà sẽ trả lại cho bà Chiến. Hiện nay bà đã tiến hành làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất và nộp thuế trước bạ. Bà đã trả đủ tiền bà Chiến làm 2 lần là 1.000.0000.000 đồng, bà chiến có làm giấy nhận tiền. Giữa bà và bà Chiến không có hợp đồng vay tài sản với số tiền vay 1.000.000.000 đồng như bà Chiến đã khai. Bà Chiến không có trả lãi cho bà và bà cũng không có nhận lãi của bà Chiến.

Vì vậy, bà yêu cầu cho lưu thông toàn bộ 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa bà với bà Chiến. Trong trường họp không cho lưu thông họp đồng thì giải quyết hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật, ngoài ra bà không yêu cầu gì khác.

Với nội dung trên,

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 07/2010/DS-ST ngày 20/12/2010, Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh quyết định:

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồng Thị Chiến đối với bà Phan Thị Ngọc về việc hủy họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất.

- Công nhận và cho lưu thông 02 họp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa bà Chiến và bà Ngọc, với tổng diện tích 63.224,1 Om2 đất cây lâu năm, đất cây hàng năm khác, đất rẫy màu, đất thổ cư, đất vườn và 01 hợp đồng mua bán đất và tài sản trên đất viết tay ngày 31/8/2009, với tổng diện tích 63.224,10m2 đất, trong đó có 62,169m2 đẩt có cây cao su, 1.055,10m2 đất thổ cư và đất vườn, với tổng trị giá hợp đồng là 1 tỷ đồng.

Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/12/2010, bà Hồng Thị Chiến có đơn kháng cáo đối với bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét hủy họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với bà Ngọc.

Tại Quyết định số 02/QĐKNPT-DS ngày 17/01/2011 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu đã kháng nghị đối với bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm hủy bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, do vi phạm pháp luật cả về nội dung và tố tụng.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 191/2011/DS-PT ngày 11/8/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hồng Thị Chiến đổi với bà Phạm Thị Ngọc về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất.

-  Hủy 02 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng bà Hồng Thị Chiến với bên nhận chuyển nhượng bà Phạm Thị Ngọc có sỗ công chứng 158, 159 ngày 31/8/2009, với diện tích đất 63.224,10m2đất cây lâu năm, đất cây hàng năm khác, đất rẫy mầu, đất thổ cư, đất vườn và 01 hợp đồng mua bản đất và tài sản trên đất viết tay ngày 31/8/2009 giữa bên bán bà Hồng Thị Chiến với bên mua bà Phạm Thị Ngọc với tổng diện tích đất 63.224,1Om2 trong đó có 62.169m2 đất cỏ cây cao su, 1.055,10m2 đất thổ cư và đất vườn, với tổng giá trị hợp đồng là 1.000.000.000 đồng, bao gồm các tài sản sau đây:

125m2 đất thổ cư và đất vườn tại tờ bản đồ số 41, thửa đất số 54 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 02073QSDĐ/757/QĐ-UB do ủy ban nhân dân huyện Tân Châu cấp cho bà Hồng Thị Chiến ngày 11/8/2004; 715m2 đất thổ cư và đất vườn tại tờ bản đồ sổ 161, thửa đất số 69 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03758/QSDĐ/l 19/QĐ-UB do ủy ban nhân dân huyện Tân Châu cấp cho bà Hồng Thị Chiến ngày 26/8/2004; 215,10m2 đất thổ cư và đất vườn tại tờ bản đồ sổ 30, thửa sổ 35 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ 01363QSDĐ/1312/QĐ-UB do ủy ban nhân dân huyện Tân Châu câp cho bà Hông Thị Chiến ngày 26/12/2003; 11.950m2 đất cây lâu năm có cây cao su tại tờ bản đồ sổ 5, thủa đất số 35 do ủy ban nhân dân huyện Tân Châu cấp cho bà Hồng Thị Chiến và ông Nguyễn Văn Cường ngày 23/3/2009; 18.207m2 đất cây lâu năm có cây cao su tại tờ bản đồ số 22, thửa đất số 213 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H03468 do ủy ban nhân dân huyện Tân Châu cấp cho bà Hồng Thị Chiến và ông Nguyễn Vãn Cường ngày 23/3/2009; 7.540m2 đất cây hàng năm khác có cây cao su tại tờ bản đồ số 03, thửa số 122 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ H00826... 1892QĐ-UB do ủy ban nhân dân huyện Tân Châu cấp cho bà Hồng Thị Chiến và ông Nguyễn Văn Cường ngày 11/11/2005; 23.695m2 đất rẫy mầu có cây cao su tại tờ bản đồ sổ 03, các thửa đất sổ 74, 75, 120, 121 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ 03087QSDĐ/458/QĐ-UB do ủy ban nhân dân huyện Tân Châu cấp cho bà Hồng Thị Chiến ngày 04/10/2004; 777m đất cây lâu năm có cây cao su tại tờ bản đồ sổ 22, thửa sổ 167 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số HOI223 do ủy ban nhân dân huyện Tân Châu cấp cho bà Hồng Thị Chiến và ông Nguyễn Văn Cường ngày 27/4/2006;

Bà Hồng Thị Chiến và ông Nguyễn Văn Cường được quyền sở hữu, sử dụng toàn bộ diện tích đất trên và tài sản trên đất là: căn nhà trị giá 76.749.000 đồng và 3505 cây cao su trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã nêu trên.

Bà Hồng Thị Chiến phải thanh toán lại cho bà Phạm Thị Ngọc số tiền 3.114.364.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm bà Hồng Thị Chiến có đcm đề nghị đối với bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 563/2013/KN-DS ngày 16/12/2013 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 191/2011/DS-PT ngày 11/8/201 lcủa Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh; với nhận định:

Bản chất thật là hợp đồng vay tài sản, còn hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có công chứng ngày 31/8/2009 chỉ nhằm che đậy quan hệ vay tài sản. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định việc chuyển nhượng đất và tài sản trên đất giữa bà Hồng Thị Chiến và bà Phạm Thị Ngọc là có thật là chưa đủ căn cứ.

Tòa án chưa làm rõ về khoản tiền 40.000.000đ này là tiền lãi hay tiền vay và chưa làm rõ ở tại thời điểm đó đất tranh chấp giá chuyển nhượng như nói trên có phù hợp với giá chuyển nhượng theo giá thị trường tại địa phương không.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ những vấn đề trên, nhưng cho rằng bà Chiến chuyển nhượng đất cho bà Ngọc và giải quyết hậu quả hợp đồng chuyển nhượng là chưa đủ căn cứ.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với nội dung kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì thấy rằng: ngày 31/8/2009, bà Hồng Thị Chiến chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Ngọc 63.224m2 đất và tài sản trên đất với giá 1.000.000.000 đồng, nhưng bà Chiến cho rằng thực tế của việc chuyển nhượng này là để đảm bảo cho khoản tiền bà Chiến vay của bà Ngọc là 1 tỷ đồng và bà Chiến có trả lãi hàng tháng cho bà Ngọc, còn bà Ngọc không thừa nhận bà Ngọc cho bà Chiến vay 1 tỷ đồng mà là bà Chiến chuyển nhượng đất và tài sản trên đất cho bà Ngọc với giá 1 tỷ đồng. Không có việc khi bà Ngọc trả tiền chuyển nhượng đất bà đã trừ lại của bà Chiến 40.000.000 đồng. Bà thừa nhận chị Thuần cháu bà có nhận của bà Chiến 40.000.000đ, nhưng không phải là tiền lãi như bà Chiến khai mà là tiền bà Chiến vay bà khi hai người đi xem đất của bà Chiến.

Tuy nhiên, theo nội dung của hợp đồng ngày 31/8/2009 (không công chứng) thể hiện rõ chuyển nhượng đất và tài sản trên đất là cây cao su, còn hợp đồng có công chứng ngày 31/8/2009 ghi rất sơ sài, có nhiều tài sản trên đất như cây cao su, nhà cửa của bà Chiến, nhưng không ghi các tài sản này vào trong hợp đồng, chỉ thể hiện chuyển nhượng đất. Hơn nữa trong hợp đồng mua bán đất và tài sản trên đất không công chứng ngày 31/8/2009, các bên còn thỏa thuận “Bên B đồng ỷ bán lại toàn bộ đất và cây cho bên A nếu bên A có nhu cầu mua lại với giá 1,2 tỷ đồng trong thời gian 1 tháng kể từ ngày chuyến nhượng”.

Như vậy, các bên đã không thể hiện ý chí, sự thảo thuận thực sự của mình trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất với giá trị thật mà bản chất thật là hợp đồng vay tài sản, còn hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có công chứng ngày 31/8/2009 chỉ nhằm che đậy quan hệ vay tài sản. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định việc chuyển nhượng đất và tài sản trên đất giữa bà Hồng Thị Chiến và bà Phạm Thị Ngọc là có thật là chưa đủ căn cứ.

Đối với khoản tiền 40.000.000đ bà Thuần nhận của bà Chiến thay bà Ngọc, bà Chiến nói là tiền lãi. Bà Thuần (cháu bà Ngọc) khai là khi bà Chiến đem trả bà Chiến nói với bà Thuần là đóng lãi cho bà Ngọc. Lời khai đầu tiên ở Công an ngày 19/1/2010 của bà Ngọc không xác định về số tiền 40.000.000đ mà bà Thuần đã nhận của bà Chiến. Sau đó ngày 25/2/2010 bà Ngọc mới khai 40.000.000đ bà Chiến trả bà Ngọc là khoản tiền bà Chiến vay bà Ngọc có viết biên nhận khi trả đã hủy đi, nhưng bà Ngọc lại không chứng minh được đó là khoản tiền bà Chiến vay bà Ngọc. Tòa án chưa làm rõ về khoản tiền này là tiền lãi hay tiền vay và chưa làm rõ ở tại thời điểm đó đất tranh chấp giá chuyển nhượng như nói trên có phù họp với giá chuyển nhượng theo giá thị trường tại địa phương không.

Các vấn đề nêu trên chưa làm rõ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng bà Chiến chuyển nhượng đất cho bà Ngọc và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là chưa đủ căn cứ. Vì vậy, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 191/2011/DS-PT ngày 11/8/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh và bản án dân sự sơ thẩm số 07/2010/DS-ST ngày 20/12/2010 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh về vụ án“Tranh chấp hợp đồng dân sự” giữa nguyên đơn là bà Hồng Thị Chiến với bị đơn là bà Phạm Thị Ngọc.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 40/2014/DS-GĐT ngày 18/02/2014 về vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English