QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 42/2014/DS-GĐT NGÀY 18/02/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO.

Họp phiên toà ngày 18/022014 tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Do có kháng nghị số 159/2013/KN-DS ngày 30/12/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 53/2013/DSPT ngày 26/6/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trần Văn Sáng, sinh năm 1957; Bà Nguyễn Thị Hằng, sinh năm 1963;

Cùng trú tại thôn cầu Gạo, xã Yên Phụ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Vân, sinh năm 1952; trú tại thôn cầu Gạo, xã Yên Phụ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Văn Vui, sinh năm 1985.

2. Anh Trần Văn Sướng, sinh năm 1982.

Đều trú tại thôn cầu Gạo, xã Yên Phụ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện ngày 20/3/201 lvà trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đom bà Nguyễn Thị Hằng trình bày:

Năm 2000 vợ chồng bà có mua của ông Vũ Văn Hoà là người cùng thôn thửa đất có diện tích 90m2 ở thôn An Ninh, xã Yên Phụ, huyện Yên Phong với giá 32.500.000đ. Nguồn gốc thửa đất này là do ông Hoà mua của ông Trần Văn Lục, còn ông Lục lại mua của HTX dịch vụ Nông nghiệp Yên Sơn cũ (gồm 3 thôn An Ninh, cầu Giữa, An Lập) từ năm 1994.

Năm 2001 vợ chồng bà có điều tiếng với nhau nên ngày 03/02/2001 (âm lịch) chồng bà là ông Trần Văn Sáng đã tự ý viết giấy bán thửa đất cho bà Nguyễn Thị Vân, đến ngày 07/02/2001 bà mới biết việc ông Sáng tự ý bán đất không được sự đồng ý của bà. Ngày 14/02/2001 bà có gọi bà Vân vào nhà và bảo là không đồng ý việc ông Sáng bán đất, bà Vân cũng đã nhất trí không có việc mua bán đất nữa.

Khoảng tháng 8/2001 bà có gọi xe ôtô chở tân đất thì bà Vân không cho và bà bảo ông Sáng đã bán đất cho bà Vân rồi. Sau đó bà Vân có gọi anh em họ hàng đến giải quyết và thống nhất là không ai làm gì thêm trên thửa đất nữa. Bà đã chấp hành không tân tạo gì thêm, nhưng đến tháng 5/2003 bà Vân lại tiến hành cho tân đất. Bà đã làm đơn gửi UBND xã Yên Phụ đề nghị giải quyết và sự việc cứ diễn ra suốt từ năm 2001 đến năm 2011. Nay do UBND xã Yên Phụ không giải quyết được tranh chấp, phía bà Vân cũng không nhất trí huỷ hợp đồng để trả lại bà thửa đất nên bà làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết, tuyên huỷ hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Sáng với bà Vân và đề nghị bà Vân phải trả lại bà thửa đất trên.

Ông Trần Văn Sáng trình bày. Ông xác định vợ chồng ông có mua của ông Vũ Văn Hoà thửa đất 90m2, khi mua bán hai bên có viết 01 giấy biên nhận với nội dung ông Hoà bán đất cho vợ chồng Hằng, Sáng. Đầu năm 2001 vợ chồng ông có điều tiếng nên ông đã đem tờ giấy biên nhận mua bán đất đến nhà bà Vân và ông đã trực tiếp viết và ký với nội dung, ông Sáng bán cho bà Vân thửa đất với giá 32.500.000đ vào mặt sau của tờ giấy và đưa cho bà Vân cất giữ với mục đích là để dọa vợ ông. Sau khi viết giấy bán đất cho bà Vân ông cũng không nói gì với bà Hằng. Vài ngày sau bà Hằng biết việc ông bán đất và không đồng ý, ông có đến nói với bà Vân là vợ không đồng ý bán thì bà Vân nói là không bán thì thôi. Do tin tưởng bà Vân nên ông cũng không lấy lại tờ giấy viết bán đất mà ông đã giao cho bà Vân cất giữ.

Đốn tháng 8/2001 vợ ông có cho xe đổ đất thì bà Vân đưa tờ giấy và nói là ông đã bán đất cho bà Vân. Nay ông cho rằng thực tế giữa ông với bà Vân không có việc mua bán đất, vợ chồng ông cũng không nhận đồng tiền nào từ bà Vân. Vì vậy ông cũng nhất trí với yêu cầu của vợ ông, đề nghị Toà án giải quyết huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà ông đã viết cho bà Vân và buộc bà Vân phải trả lại đất cho vợ chồng ông.

Bị đom bà Nguyễn Thị Vân trình bày. Vào ngày 03/02/2001 (âm lịch) ông Trần Văn Sáng là em chồng bà có bán cho bà thửa đất tại thôn An Ninh, xã Yên Phụ với diện tích 90m2, giá bán đất là 32.500.000đ, trong đó bà phải trả ông Sáng là 2000USD và 2.500.000đồng. Ông Sáng đã nhận tiền và đã viết một giấy bán với nội dung uSáng bán cho chị Nguyên Thị Văn với so tiền 32.500.000đ để chị Vân làm thủ tục và toàn quyền sử dụng". Bà đã ký vào mục người mua, còn ông Sáng ký vào mục người bán.

Về nguồn gốc thửa đất này là do trước đây của ông Trần Văn Lục mua của HTX dịch vụ Nông nghiệp Yên Sơn từ năm 1994, sau đó ông Lục bán lại cho ông Hoà, ông Hoà bán cho ông Sáng và ông Sáng đã bán lại cho bà. Ở thời điểm bà mua đất của ông Sáng thì thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên sau đó bà đã đưa cho ông Sáng toàn bộ giấy tờ mua bán đất mà ông Sáng đã viết cho bà để ông Sáng giữ và làm thủ tục.

Tháng 8/2009 gia đình bà đã xây dựng một số công trình trên thửa đất gồm: 01 lán cột thép, khung thép lợp mái tôn, phía giáp đường 286 xây tường 10 cửa đẩy bằng sắt rộng 4.00m, cao 3.00m, diện tích lán là 72m2; 03 gian nhà cấp 4 khung thép lọp Ploximăng xây tường 10 ba mặt, công trình phụ gồm nhà tắm, nhà vệ sinh tự hoại đổ trần bê tông trên có bể nước; 03 gian nhà cấp 4 nhỏ lát gạch hoa, còn lại là sân láng bê tông.

Hiện thửa đất vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng theo hồ sơ địa chính thì thửa đất hiện nay có số thửa 152, tờ bản đồ số 15 xã Yên Phụ, huyện Yên Phong. Thửa đất có tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất hộ ông Đỗ Văn Hà dài 15m, phía Tây giáp đất hộ ông Vũ Văn Hoà dài 15m, phía Nam giáp đường 286 dài 6m, phía Bắc giáp rãnh thoát nước tập thể dài 6m.

Nay vợ chồng ông Sáng, bà Hằng khởi kiện, ý kiến của bà là không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Sáng, bà Hằng mà bà đề nghị Toà án công nhận họp đồng chuyển nhượng đất giữa bà với ông Sáng, và đề nghị được quyền sử dụng thửa đất này.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Trần Văn Vui và anh Trần Văn Sướng là con của bà Vân trình bày: Nguồn gốc thửa đất tại thôn An Ninh, xã Yên Phụ hiện đang có tranh chấp là do mẹ các anh là bà Vân mua của ông Sáng từ năm 2001 với giá 32.500.000đ. Thời điểm mẹ các anh mua đất thì bố là ông Trần Văn Quang đã chết, toàn bộ số tiền mua đất là của bà Vân tích cóp được, các anh không có đóng góp gì. Chỉ đến năm 2009 khi gia đình xây dựng một số công trình trên đất thì các anh có đóng góp tiền bạc, công sức. Nay có tranh chấp giữa vợ chồng ông Sáng, bà Hằng với mẹ các anh về việc sử dụng thửa đất, các anh có ý kiến đề nghị Toà án giải quyết bảo đảm quyền lợi cho mẹ con các anh. Anh Vui và anh Sướng cũng đều uỷ quyền cho bà Vân thay mặt các anh giải quyết tại Toà án.

Chị Trần Thị Tươi (con bà Vân) trình bày, liên quan đến tranh chấp giữa vợ chồng ông Sáng với mẹ chị, bản thân chị khi mẹ chị mua đất và khi gia đình làm nhà xưởng đều không có công sức đóng góp gì. Do vậy chị đề nghị Toà án không đưa chị vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ kiện.

Với nội dung trên,

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 21/2012/DSST ngày 07/11/2012 Toà án nhân dân huyện Yên Phong quyết định:

- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Sáng và bà Nguyễn Thị Vân lập ngày 03/02/2001 (âm lịch) là vô hiệu.

- Buộc bà Nguyễn Thị Vân phải bàn giao hoàn trả cho ông Trần Văn Sáng, bà Nguyễn Thị Hằng 01 thửa đất nằm trong thửa số 152, tờ bản đồ số 15 tại thôn An Ninh, xã Yên Phụ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh có diện tích 90m2 (có tứ cận).

Và tiến hành bàn giao cho vợ chồng ông Sáng, bà Hằng các công trình đã xây dựng trên phần diện tích thửa đất đã được quy hoạch gồm: Nhà mái lợp tôn diện tích 51,17m2; nhà mái lợp Proximăng diện tích 18,24m2; mái lợp Prôximăng diện tích 12,3m2; cửa sắt bằng thép bịt tôn.

- Buộc bà Nguyễn Thị Hằng, ông Trần Văn Sáng phải có nghĩa vụ hoàn trả bà Nguyễn Thị Vân số tiền đã bỏ ra mua đất là 32.500.000đ và phải thanh toán bồi thường chênh lệch về giá trị thửa đất tại thời điểm xét xử cho bà Vân là 1.800.000.000đ (Một tỷ tám trăm triệu đồng). Đồng thời phải thanh toán trả cho bà Vân và 02 con trai là anh Trần Văn Sướng, anh Trần Văn Vui trị giá các công trình trên đất gồm: Nhà mái lợp tôn diện tích 51,17m2; nhà mái lợp Proximăng diện tích 18,24m2; Mái lọp Prôximăng diện tích 12,3m2; Cửa sắt bằng thép bịt tôn, khối lượng giá trị cát tân trên thửa đất 171 khối với tổng số tiền là 40.566.000đ (Bốn mươi triệu năm trăm sáu sáu nghìn đồng). Tổng số tiền mà vợ chồng bà Nguyễn Thị Hằng, ông Trần Văn Sáng phải thanh toán trả cho phía bà Nguyễn Thị Vân và các con bà Vân là Trần Văn Vui, Trần Văn Sướng do bà Vân đại diện 1.873.066.000đ (Một tỷ tám trăm bảy mươi ba triệu, không trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).

- Buộc bà Nguyễn Thị Vân và các con là Trần Văn Vui, Trần Văn Sướng phải tháo dỡ công trình vệ sinh có diện tích 4,8m2 xây dựng trên cống tập thể.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi án sơ thẩm xử, ngày 14/11/2012 bà Vân kháng cáo bản án sơ thẩm đề nghị Toà án cấp phúc thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất và công nhận cho bà được quyền sử dụng hợp pháp thửa đất.

Ngày 16/11/2012 vợ chồng ông Sáng, bà Hằng kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm vì cho rằng vợ chồng chưa nhận tiền, chưa giao đất do vậy không phải trả tiền bán đất và tiền chênh lệch tài sản cho bà Vân. Vợ chồng ông Sáng, bà Hằng cũng không đồng ý về việc trả tiền giá trị tài sản cho bà Vân, anh Vui, anh Sướng.

Ngày 19/12/2012 ông Sáng, bà Hằng bổ sung đơn kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xử huỷ án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Toà án Yên Phong xét xử lại.

Ngày 20/11/2012 Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong có kháng nghị sổ 01/QĐKNPT-DS với nội dung cho rằng khi giải quyết vụ kiện Toà án nhân dân huyện Yên Phong đã có sai lầm nghiêm trọng trong việc thụ lý vụ kiện, về xác định quan hệ pháp luật, về trình tự thủ tục định giá, về xác định lỗi vi phạm hợp đồng của các bên, về xử lý tài sản xây dựng trên đất. Kháng nghị đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xử huỷ bản án sơ thẩm giao hồ sơ cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ kiện.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 53/2013/DSPT ngày 26/6/2013 Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh quyết định: Sửa bản án sơ thẩm (về thanh toán bồi thường chênh lệch giá trị thửa đất tranh chấp).

- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Sáng và bà Nguyễn Thị Vân lập ngày 03/02/2001 (âm lịch) là vô hiệu.

- Buộc bà Nguyễn Thị Vân phải bàn giao hoàn trả cho ông Trần Văn Sáng, bà Nguyễn Thị Hằng 01 thửa đất nằm trong thửa số 152, tờ bản đồ số 15 tại thôn An Ninh, xã Yên Phụ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh có diện tích 90m2 (có tứ cận).

Và tiến hành bàn giao cho vợ chồng ông Sáng, bà Hằng các công trình đã xây dựng trên phần diện tích thửa đất đã được quy hoạch gồm: Nhà mái lợp tôn diện tích 51,17m2; nhà mái lợp Proximăng diện tích 18,24m2; Mái lợp Prôximăng diện tích 12,3m2; Cửa sắt bằng thép bịt tôn.

- Buộc bà Nguyễn Thị Hằng, ông Trần Văn Sáng phải có nghĩa vụ hoàn trả bà Nguyễn Thị Vân số tiền đã bỏ ra mua đất là 32.500.000đ và phải thanh toán bồi thường chênh lệch về giá trị thửa đất tại thời điểm xét xử cho bà Vân là 1.079.750.OOOđ. Tổng cộng 1.112.250.000đ (Một tỷ một trăm mười hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Đồng thời phải thanh toán trả cho bà Vân và 02 con trai là anh Trần Văn Sướng, anh Trần Văn Vui trị giá các công trình trên đất gồm: Nhà mái lợp tôn diện tích 5l,17m2; nhà mái lọp Proximăng diện tích 18,24m2; Mái lợp Prôximăng diện tích 12,3m2; Cửa sắt bằng thép bịt tôn, khối lượng giá trị cát tân trên thửa đất 171 khối với tổng số tiền là 40.566.000đ (Bốn mươi triệu năm trăm sáu sáu nghìn đồng). Tổng số tiền mà vợ chồng bà Nguyễn Thị Hằng, ông Trần Văn Sáng phải thanh toán trả cho phía bà Nguyễn Thị Vân và các con bà Vân là Trần Văn Vui, Trần Văn Sướng do bà Vân đại diện 1.152.81 ó.OOOđ (Một tỷ một trăm năm mươi hai triệu tám trăm mười sáu nghìn đồng).

- Buộc bà Nguyễn Thị Vân và các con là Trần Văn Vui, Trần Văn Sướng phải tháo dỡ công trình vệ sinh có diện tích 4,8m2 xây dựng trên cống và đất lấn chiếm của tập thể.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định vế án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Vân có đơn đề nghị xem xét lại bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục phúc thẩm.

Tại Quyết định số 159/2013/KN-DS ngày 30/12/2013 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 53/2013/DSPT ngày 26/6/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh; với nhận định:

Việc định giá tại cả hai giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm đều không đảm bảo theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.

Tại giai đoạn phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm đã ký hợp đồng dịch vụ định giá với Công ty cổ phần giám định và thẩm định Á Âu, chi nhánh Bắc Ninh, giá của Công ty cũng chỉ căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh về việc ban hành giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh năm 2013 mà không phải căn cứ vào giá chuyển nhượng đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử là không đúng, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

Mặt khác, Toà án hai cấp không đưa ông Vũ Văn Hoà (là người bán đất cho ông Sáng, bà Hằng) vào tham gia tố tụng để xác định rõ về nguồn gốc phần đất tranh chấp, về việc chuyển nhượng giữa các bên để làm cơ sở giải quyết vụ án là thiếu sót.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên nội dung kháng nghị của Viện trưởng, đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì thấy rằng phần đất hiện hai bên đang tranh chấp có diện tích là 90m2 tại thôn An Ninh,Yên Phụ, Yên Phong, Bắc Ninh có nguồn gốc là do ông Trần Văn Sáng, bà Nguyễn Thị Hằng nhận chuyển nhượng của ông Vũ Văn Hoà, là người cùng thôn từ năm 2000 với giá 32.500.000đ; việc chuyển nhượng giữa ông Hòa với ông Sáng chỉ có giấy viết tay. Đất này chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đã có tên trong bản đồ địa chính xã Yên Phụ tại thửa số 152, tờ bản đồ số 15.

Ngày 03/02/2002 (âm lịch) ông Sáng đã viết giấy chuyển nhượng phần đất trên cho bà Vân với nội dung “Sảng bán cho chị Nguyễn Thị Vân với so tiền 32.500.000đ để chị Vân làm thủ tục và toàn quyền sử dụng”, giấy có chữ ký của ông Sáng, bà Vân.

Ông sáng cho rằng do vợ chồng ông có điều tiếng nên ông viết giấy bán đất cho bà Vân là để dọa vợ, chứ thực tế ông chưa nhận tiền của bà Vân. Bà Vân thì cho rằng việc ông Sáng bán đất cho bà là có thật, bà đã trả ông Sáng là 2000USD và 2.500.000 VNĐ và đã nhận đất. Bà Vân đề nghị Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà với ông Sáng. Bà Hằng (vợ ông Sáng) yêu cầu Toà án tuyên huỷ hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Sáng với bà Vân và đề nghị bà Vân phải trả lại bà thửa đất trên.

Xét thấy, về nội dung: diện tích đất ông Sáng chuyển nhượng cho bà Vân là tài sản chung của vợ chồng ông Sáng, bà Hằng, ông Sáng tự ý chuyên nhượng cho bà Vân mà không có ý kiến của bà Hằng; việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Sáng, bà Vân chỉ là giấy viết tay, không có công chứng chứng thực và cũng chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng quy định của pháp luật về đất đai. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định hợp đồng vô hiệu là có căn cứ.

Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, đương sự có đơn yêu cầu định giá lại; Toà án cấp phúc thẩm đã tiến hành định giá lại, nhưng lại căn cứ vào giá do Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh ban hành đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh năm 2013 mà không phải căn cứ vào giá chuyển nhượng đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử là không đúng, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.về tố tụng: theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng bà Hằng cho rằng ngày 03/02/2001 (âm lịch) ông Sáng viết giấy chuyển nhượng đất cho bà Vân, đến ngày 07/02/2001 bà Hằng biết việc ông Sáng tự ý chuyển nhượng đất không được sự đồng ý của bà. Bản thân ông Sáng cũng xác định vài ngày sau bà Hằng biết việc ông bán đất cho bà Vân và bà Hằng không đồng ý về việc ông chuyển nhượng đất cho bà Vân nên ngày 14/02/2001 bà Hằng có gọi bà Vân vào nhà và bảo là không đồng ý việc ông Sáng chuyển nhượng đất. Tháng 8/2001 bà Hằng có gọi xe ôtô chở đất để tân đất thì bà Vân không cho bà Hằng tân đất, vì bà Vân cho rằng ông Sáng đã bán đất cho bà. Sau đó cả bà Vân và bà Hằng không ai có ý kiến gì về việc tranh chấp đất. Tháng 5/2003 bà Vân lại tiến hành cho tân đất hai bên đã xảy ra tranh chấp, bà đã làm đơn gửi UBND xã Yên Phụ đề nghị giải quyết.

Theo báo cáo số 25/BC-UB ngày 20/5/2004 của ủy ban nhân dân xã Yên Phụ thì ngày 01/10/2003, ủy ban nhân dân xã Yên Phụ mới nhận được đơn của bà Hằng; tuy nhiên, hồ sơ vụ án không có tài liệu nào thể hiện bà Hằng có đơn gừi ủy ban nhân dân xã Yên Phụ đề nghị giải quyết trong khoảng thời gian nêu trên mà đến năm 2009 bà Hằng mới có đơn yêu cầu xã giải quyết.

Như vậy, ông ông Sáng, bà Hằng biết được quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm kể từ tháng 8/2001, nhưng ông Sáng, bà Hằng không có đơn đề nghị ủy ban nhân dân xã giải quyết trong khoảng thời gian 2 năm. Đen ngày 20/3/2011 bà Hằng mới có đơn khởi kiện là đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng đến tháng 8/2009 ủy ban nhân dân xã mới hòa giải không thành nên vẫn còn thời hiệu khởi kiện là không đúng.

Ngoài ra, phần đất tranh chấp hiện ông Sáng, bà Hằng cũng chỉ có bản photocopy giấy viết tay có nội dung ông Sáng nhận chuyển nhượng đất của ông Vũ Văn Hoà, không có tài liệu nào khác thể hiện quyền sử dụng đất của ông Sáng, bà Hằng đổi với phần đất đang tranh chấp. Nhưng Toà án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa ông Hoà vào tham gia tố tụng để xác định rõ quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp và việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên để làm cơ sở giải quyết vụ án là thiếu sót. Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ cả bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại là có căn cứ chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 53/2013/DSPT ngày 26/6/2013 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và bản án dân sự sơ thẩm số 21/2012/DSST ngày 07/11/2012 của Toà án nhân dân huyện Yên Phong về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhuợng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Trần Văn Sáng, bà Nguyễn Thị Hằng với bị đơn là bà Nguyễn Thị Vân và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Văn Vui, anh Trần Văn Sướng.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 42/2014/DS-GĐT ngày 18/02/2014 về vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English