QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 53/2014/DS-GĐT NGÀY 20/02/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 20/02/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

Ông Đặng Thành Ân, sinh năm 1960;

Trú tại: tổ 1, khu phố Tân Trà 1, phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

Bị đơn:

1. Bà Phạm Trần Nữ, sinh năm 1963;

Trú tại: tổ 4, khu phố Thanh Bình, phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoà tỉnh Bình Phước.

2. Ông Võ Tấn Minh, sinh năm 1957 (đã chết);

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Minh gồm:

1. Bà Phạm Trần Nữ, sinh năm 1963;

2. Chị Võ Hằng My, sinh năm 1981;

3. Anh Võ Tấn Quang, sinh năm 1986;

4. Anh Võ Tấn Vũ, sinh năm 1989;

5. Chị Võ Hương Như, sinh năm 1998;

Cùng trú tại: tổ 4, khu phố Thanh Bình, phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

Chị Hằng, anh Quang, anh Vũ ủy quyền cho bà Nữ tham gia tố tụng, bà Nữ đại diện đương nhiên cho chị Võ Hương Như tham gia tố tụng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Nghệ, sinh năm 1951;

2. Ông Võ Tấn Lập, sinh năm 1952;

3. Bà Nguyễn Thị Minh Hợp;

Cùng trú tại: tổ 1, khu phố Tân Trà 1, phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

Theo Quyết định kháng nghị số 692/2013/KN-DS ngày 21/10/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 87/2011/DS-PT ngày 23/8/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước.

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện ngày 21/11/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đon - ông Đặng Thành Ân trình bày:

Năm 1980, ông và ông Võ Tấn Lập có nhận sang nhượng chung 01 mảnh đất của ông Huỳnh Ngọc Chẩm với diện tích 2.484m2. Sau đó, do ông Lập không có nhu cầu sử dụng nên đã sang nhượng lại phần đất của mình cho vợ chồng ông Minh, bà Nữ. Năm 1980, ông làm nhà; đến năm 1987 ông Minh làm nhà.

Ngày 09/12/1996, gia đình ông và gia đình bà Nữ xảy ra tranh chấp với nhau về diện tích đất được chia. Vụ việc được chính quyền địa phương gồm có ông Đặng Quốc Toản, ông Nguyễn Phúc Ánh giải quyết và tiến hành đo đạc lại diện tích của các bên thì phát hiện phần đất được chia cho gia đình bà Nữ là 1.350m2, dư 108m2. Gia đình bà Nữ không những không trả cho gia đình ông phần đất dư mà gia đình ông còn phải để giành cho gia đình bà Nữ một con đường đi (do đất gia đình bà Nữ nằm ở phía trong, không có đường đi ra).

Đen năm 1999, gia đình ông và bà Nữ đóng cột mốc ranh giới đất. Tuy nhiên, khi Nhà nước tiến hành làm đường Hùng Vương đã làm mất các cột mốc ranh giới đất đó. Theo ông, đáng lẽ hai gia đình phải xác minh lại ranh giới đât nhưng gia đình bà Nữ đã tự cắm mốc lại mà không thông báo với gia đình ông nên đã lấn sang đất của gia đình ông.

Khi Nhà nước làm đường Hùng Vương thì diện tích đất của hai gia đình mua chung trước đây bị giải tỏa, còn lại 243m2 trong đó có đất của gia đình bà Nữ chiếm dụng của gia đình ông trước đây.

Năm 2005, gia đình bà Nữ xây dựng hàng rào đã lấn sang đất của gia đình ông, tuy nhiên, do thời điểm đó chỉ có một mình bà Nghệ (vợ ông) cùng các con ở nhà nên không dám có ý kiến với gia đình bà Nữ. Nay ông khởi kiện với các yêu cầu sau: Gia đình bà Nữ trả lại cho ông 108m2 đất đã lấn chiếm, gia đình bà Nữ phải tháo dỡ hàng rào, trả lại đất cho ông đúng vị trí là 27m tính từ ranh giới đất của ông Nông Văn Hòa kéo dài về phía đất của bà Nữ.

Bị đơn - bà Phạm Trần Nữ trình bày: Khoảng năm 1989, vợ chồng bà có nhận sang nhượng lại của ông Võ Tấn Lập một mảnh đất tọa lạc tại khu phố Tân Trà 1, phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước hiện nay. Mảnh đất này có nguồn gốc trước đây do ông Lập và ông Ân cùng sang nhượng của người khác có diện tích là 2.484m2.

Khi vợ chồng bà nhận sang nhượng đất của ông Lập thì mảnh đất này đã được ông Ân xác nhận ranh giới là hàng cây chuối từ trước. Khi vợ chồng bà đến sinh sống thì chính ông Ân là người chỉ ranh và cắm tim nhà cho bà Nữ.

Đến khoảng tháng 12/1996 thì gia đình bà và gia đình ông Ân chia đất. Khi đó đại diện khu phố gồm ông Nguyễn Phúc Ánh, ông Đặng Quốc Toản, ông Nông Văn Hòa và một số người làm chứng khác gồm ông Võ Tấn Lập và ông Diệp Ngọc Thanh chứng kiến việc chia đất. Khi chia đất, đại diện khu phố có lập biên bản. Do đất của gia đình bà nằm ở vị trí không bằng phang và ở phía trong nên diện tích của gia đình bà nhiều hơn diện tích của gia đình ông Ân. Hơn nữa gia đình ông Ân còn phải dành một con đường đi để gia đình bà đi lại ra đường lớn. Theo biên bản do khu phố lập thì con đường đi này không tính vào diện tích đất cho hai gia đình nên diện tích của gia đình ông Ân nhỏ hơn diện tích của gia đình bà. Tuy nhiên, vào năm 1998 khi Nhà nước quy hoạch đường Hùng Vương thì gia đình ông Ân đã nhập diện tích con đường này vào diện tích của gia đình ông đế được nhận tiền bồi thường. Sau khi chia đất xong, gia đình ông Ân có làm ranh giới bằng cây chìa vôi, nhưng khi làm đường Hùng Vương thì ranh giới này không còn.

Khi làm đường Hùng Vương phần đất của bà sau khi bị giải tỏa làm đường thì còn có một phần diện tích đất nằm ở đối diện với quán cà phê “Hương Tràm” hiện nay. Năm 2001, bà đã dùng diện tích đất này trao đổi với bà Hợp. Khi trao đổi đất thì bà Hợp và ông Ân cũng xác định lại ranh giới đất cho bà Hợp do đất của ông Ân sau khi giải tỏa làm đường Hùng Vương cũng có một phần diện tích đất nằm phía đối diện bên kia đường (phần đất này ở gần vị trí với đất của bà trao đổi với bà Hợp nhưng không giáp ranh với nhau).

Năm 2000, hai gia đình thống nhất chôn các cột mốc bằng bê tông để chia ranh giới đất. Đến năm 2001, gia đình bà mua dây kẽm gai để căng làm ranh giới đất.

Năm 2004, gia đình bà tiến hành xây dựng hàng rào (các cột bê tông làm hàng rào nằm phía trong bức tường xây và hiện nay vẫn còn). Lúc làm tường rào thì gia đình ông Ân có biết nhưng không có ý kiến gì về việc xây dựng hàng rào này.

Nay ông Ân khởi kiện yêu cầu gia đình bà trả lại 108m2 đất và buộc phải tháo dỡ hàng rào thì bà không đông ý.

Đồng thời ngày 08/01/2001, bà có đơn phản tố cho rằng chính gia đình ông Ân lấn chiếm đất của gia đình bà, cụ thể:

Hướng Tây theo mặt đường Hùng Vưong là 55cm, cạnh giáp đất ông Ân là 3,74m, cạnh giáp quán cà phê Hương Tràm là 3,50m với tổng diện tích hình tam giác là 0,9m2.

Hướng Đông để đi vào quán cháo cá Miền Tây theo mặt đường Hùng Vương là 4,5m, mặt tiếp giáp đất ông Ân là 3,71m cạnh giáp cống thoát nước là 1,69m với tổng diện tích hình tam giác là 3m2.

Do đó, bà yêu cầu gia đình ông Ân phải trả lại phần đất lấn chiếm nêu trên cho gia đình bà.

Người có quyền lợi, nghĩá vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Nghệ trình bày: bà thống nhất toàn bộ lời trình bày và yêu cầu của ông Ân.

2. Ông Võ Tấn Lập trình bày: Vào năm 1988, ông và ông Ân cùng nhận sang nhượng chung của ông Nguyễn Xí một mảnh đất tọa lạc tại ấp Phước Thiện 3, xã Đồng Xoài (cũ).

Khi chia đất thì ông Ân lấy phàn đất giáp ranh với đất ông Nông Văn Hòa, đất vuông và đẹp, còn đất của ông Minh, bà Nữ thì nằm ở vị trí sát suối và ruộng, trũng nên diện tích lớn hơn. Việc chia đất có chính quyền địa phương giải quyết, trong đó có ông Lập - đội trưởng, ông Nguyễn Văn Đổi - âp trưởng, ông Đặng Quốc Toản - ban thuế và ông Kim - địa chính tiến hành lập biên bản giải quyết vào ngày 20/12/1996, gia đình ông Ân và bà Nữ đã thống nhất theo nội dung biên bản nói trên.

3. Bà Nguyễn Thị Minh Hợp trình bày: Việc tranh chấp giữa gia đình ông Ân và gia đình bà Nữ thì bà không biêt. Vào năm 1999, giữa bà và bà Nữ có đôi cho nhau một diện tích đất. Bà Nữ lấy 350m2 phía sau đường Hùng Vương (không nhớ rõ diện tích chiều ngang và chiều dài). Còn bà lấy 110m2 đất ở phía mặt tiền đường Hùng Vương. Hiện nay phần đất mà bà đổi cho bà Nữỵ bà đã bán cho người khác. Bà đề nghị được vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và không có khiếu nại gì.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2010/DSST ngày 08/02/2010, Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Thành Ân.

Buộc bà Phạm Trần Nữ và ông Võ Tấn Minh phải trả cho ông Đặng Thành Ân một diện tích đất 71,2m2 có tứ cận như sau: phía Bắc giáp đường Hùng Vương dài 6,1m; phía Nam giáp đất ông Ân dài 0m; phía Đông giáp đât ông An dài 15m; phía Tây giáp đất ông Ân dài 17,7m;

Buộc bà Phạm Trần Nữ và ông Võ Tấn Minh phải trả cho ông Đặng Thành Ân số tiền là 378.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.Ngày 08/02/2010, bà Phạm Trần Nữ có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 87/2011/DSPT ngày 23/8/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước quyết định: Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2010/DSST ngày 08/02/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện “tranh chấp quyền sử dụng đất” của nguyên đơn ông Đặng Thành Ân.

Buộc bà Phạm Trần Nữ và ông Võ Tấn Minh phải trả cho ông Đặng Thành Ân, bà Nguyễn Thị Nghệ diện tích đất 71,2m2 có tứ cận như sau: phía Bắc giáp đường Hùng Vương dài 6,lm; phía Nam giáp đất ông Ân dài 0m; phía Đông giáp đất ông Ân dài 15m; phía Tây giáp đất ông Ân dài 17,7m; tọa lạc tại khu phố Tân Trà, phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước; buộc bà Nữ phải đập bỏ bức tường, tháo dỡ, di dời phân căn nhà bán kiên cố và chặt (cưa) bỏ những cây trồng trên đất tranh chấp để trả lại đất cho ông Ân, bà Nghệ.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện “tranh chấp quyền sử dụng đất” của nguyên đơn Phạm Thành Ân đối với diện tích 108m2 (trong diện tích 243m2, ký hiệu 394) tọa lạc tại khu phố Thanh Bình, phường Tân Bình, thị xã Đông Xoài, tỉnh Bình Phước.

Bà Nữ, ông Ân, bà Nghệ có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.

Hủy Bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án liên quan đến yêu cầu phản tố của bà Nữ tranh chấp với ông Ân, bà Nghệ đối với thửa đất 401 (tọa lạc tại khu phố Tân Trà, phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước).

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Phạm Trần Nữ có đơn khiếu nại.

Ngày 09/9/2011, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước có Công văn số 131/2011/BC-KNGĐT gửi Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ngày 23/4/2012, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Công văn số 1187/VKSTC-V5 gửi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, theo đó cho rằng không có căn cứ để kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 692/2013/KN-DS ngày 21/10/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 87/2011/DS-PT ngày 23/8/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước. Đe nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu ừên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2010/DSST ngày 08/02/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 20/02/2014, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Giám đốc thấm chấp nhận Quyết định kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì các đương sự cùng thống nhất: năm 1980, ông Đặng Thành Ân và ông Võ Tấn Lập (anh trai ông Minh - chồng bà Nữ, ông Minh đã chết năm 2010) có nhận sang nhượng chung thửa đất của ông Huỳnh Ngọc Chẩm với diện tích là 2.484m2. Năm 1989, ông Lập sang nhượng lại cho vợ chồng bà Nữ toàn bộ diện tích đất mà ông Lập đã nhận chuyển nhượng chung với ông Ân. Vợ chồng bà Nữ đã sử dụng đất từ khi nhận sang nhượng đến năm 1996 thì phát sinh tranh chấp với ông Ân. Năm 1998, Nhà nước làm đường Hùng Vương có lấy vào đất của bà Nữ và ông Ân. Sau khi mở đường, đất của bà Nữ còn lại thuộc thửa số 394 là 243m2, đất của ông Ân thuộc thửa 398 là 66m2, thửa đất số 394 của bà Nữ và thửa số 398 của ông Ân cách nhau bởi đường Hùng Vương.

Ngày 21/11/2006, ông Ân khởi kiện cho rằng diện tích đất nhận chuyển nhượng chung của gia đình ông thiếu 108m2 và yêu cầu bà Nữ phải trả lại 108m2 đất tại thửa 394 của bà Nữ, nhưng ông Ân không chứng minh được bà Nữ lấn chiếm đất cụ thể vị trí tứ cận như thế nào (Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 17/8/2011-BL57) nên Tòa án cấp phúc thẩm đã bác đơn yêu cầu đòi lại 108m2 đất của ông Ân là có căn cứ.

Cạnh thửa đất số 398 của ông Ân là thửa đất số 399 cũng thuộc quyền sử dụng của ông Ân (không phải thửa đất nhận chuyển nhượng chung). Ông Ân cho rằng bà Nữ có thửa đất số 400 (do bà Nữ đổi đất với bà Nguyễn Thị Minh Hợp) cạnh thửa đất số 399 của ông, bà Nữ đã lấn chiếm thửa đất số 399 của ông chiều ngang theo mặt đường Hùng Vương là 6,1m; đất của ông gồm hai thửa 398 và 399 phải có chiều ngang theo mặt đường Hùng Vương là 27m tính từ đất của ông Nông Văn Hòa (nằm về phía Tây cạnh thửa đất số 398 của ông Ân) đến đất của bà Nữ, nay đo bị thiếu 6,1m nên yêu cầu bà Nữ trả lại.

Tại Biên bản hòa giải về việc tranh chấp đất giữa bà Nữ và ông Ân do ủy ban nhân dân phường Tân Bĩnh lập ngày 15/3/2002 (BL9) có nội dung thể hiện bà Nữ tranh chấp với ông Ân phần lối đi chiều ngang mặt đường là 8,5m, có sơ đồ kèm theo thể hiện tính tự.phía Tây về phía Đông thì chiều ngang theo mặt đường Hùng Vương đất của ông Ân gồm thửa 398 là 18m và thửa 399 là 9m, đến phần đất tranh chấp là 8,5m, đến đất của bà Nữ gồm thửa số 400 là 51m, thửa số 401 là 8,5m, nhưng hai bên chưa thống nhất được ý kiến và “đề nghị chuyển vụ việc lên trên, phòng Nông nghiệp địa chính xã Đồng Xoài giải quyết”. Như vậy, tại Biên bản hòa giải này hai bên chưa thống nhất được đất của mỗi bên có diện tích bao nhiêu, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại căn cứ Biên bản hoà giải ngày 15/3/2002 nêu trên để xác định đất ông Ân có mặt đường 27m, nay đo thiếu và xác định đất bà Nữ thừa để buộc bà Nữ trả đất cho ông Ân 71,2m2 (đất có kích thước là hình tam giác, mặt đường 6,1m, 2 cạnh là 15m và 17,7m) và cho rằng bà Nữ đã mặc nhiên thừa nhận là chưa đủ căn cứ. Mặt khác, tại trích đo Bản đồ địa chính về tranh chấp đất giữa bà Nữ và ông Ân lập ngày 12/5/2008 (BL221) thì chiều rộng đất mặt tiền đường Hùng Vương của ông Ân là 26,9m, hành lang lộ giới là 21,2m, diện tích là 71,2m2, trong khi đó theo Biên bản định giá ngày 08/9/2010 (BL11-PT) thì hành lang lộ giới là 21,5m, diện tích đất tranh chấp là 61 m2 nhưng không thể hiện đất mặt tiền đường Hùng Vương của hộ ông Ân là bao nhiêu. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thấm phải thu thập chứng cứ về quá trình sử dụng đất của hai bên, nguồn gốc đất, việc kê khai đăng ký, trên cơ sở đó mới đủ căn cứ giải quyết vụ án đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH

- Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 692/2013/KN-DS ngày 21/10/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 87/2011/DS-PT ngày 23/8/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2010/DSST ngày 08/02/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Đặng Thành Ân với bị đơn là bà Phạm Trần Nữ, ông Võ Tấn Minh (đã chết) có bà Phạm Trần Nữ, chị Võ Hằng My, anh Võ Tấn Quang, anh Võ Tấn Vũ, chị Võ Hương Như là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng.

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 53/2014/DS-GĐT ngày 20/02/2014 về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English