QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 535/2014/DS-GĐT NGÀY 19/12/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 19/12/2014 xét xử giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 207/2011/DS-PT ngày 24/10/201 lcủa Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án “Tranh chấp hợp quyền sử dụng đất” bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị, có các đương sự:

Nguyên đơn: Đào Thị Thanh, sinh năm 1958;

Bị đơn: Hoàng Thị Sách, sinh năm 1932;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.   Bùi Văn Chỉnh, sinh năm 1952;

2.   Bùi Văn Bình, sinh năm 1954;

3.   Bùi Thị Xuyên, sinh năm 1957;

4.   Bùi Thị Nhẫn, sinh năm 1963;

5.   Bùi Thị Thúy Hằng, sinh năm 1982;

6.   Bùi Ngọc Sơn, sinh năm 1984;

7.   Bùi Văn Vĩnh (Viện), sinh năm 1970;

8.   Đào Thị Kim (Chinh), sinh năm 1968;

9.   Bùi Thị Ninh, sinh năm 1990;

Nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nêu trên cùng trú tại thôn Xuân Trạch, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, Hà Nội.

10.   Bùi Thị Hoa, sinh năm 1969; trú tại nhà số 9, ngõ 11, Ngô Gia Tự, quận Long Biên, Hà Nội.

11.   Bùi Thị Thủy, sinh năm 1979; trú tại thôn Đông Trù, xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện ngày 1/7/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Đào Thị Thanh trình bày:

Năm 1978 bà kết hôn với ông Bùi Bằng Kiên là con trai của cụ Bùi Văn Te và cụ Hoàng Thị Sách, cụ Tồ chết năm 2009. Sau khi lấy ông Kiên, vợ chồng bà ở chung với cha mẹ chồng. Năm 1980 vợ chồng bà chuyển ngôi nhà mái dạ đến phần đất của cụ Bùi Văn Kế (em trai cụ Te) để ở nhờ.

Năm 1982 Hợp tác xã chia đất giãn dân, vợ chồng bà được chia nửa sào bắc bộ tại khu cổng cầu, thôn Xuân Trạch, Xuân Canh, Đông Anh. Việc cấp đất giãn dân không lập thành văn bản mà Hợp tác xã chỉ gọi các hộ gia đình ra nhận đất. Đợt được cấp đất giãn dân có 4 hộ, gồm vợ chồng bà, hộ ông Trí, ông Bình và ông Phúc. Phân đât của bà được câp giáp với đât của ông Bình, ông Phúc.

Do điều kiện khó khăn nên vợ chồng bà chưa làm nhà, chồng bà muốn anh em ở gần nhau nên năm 1984 vợ chồng bà đã đổi phần đất được cấp cho vợ chồng ông Nguyễn Đường Bình và bà Nguyễn Thị Việt để lấy phần đất ao diện tích 315m2, có tứ cận một mặt giáp với đất bố mẹ chồng, một mặt giáp với đất cụ Kê, một mặt giáp với đât của ông Lê Xuân Thức và Bùi Văn Toàn, mặt còn lại giáp với đường đi. Việc đổi đất này đã được chủ đất là ông Bình và mẹ chồng là cụ Sách xác nhận tại văn bản ngày 22/8/2005 do bà viết, ông Bình và cụ Sách ký.

Sau khi đối đất, vợ chồng bà chưa có tiền lấp ao mà vẫn ở nhờ trên đất của chú (là cụ Ke). Năm 1989 vợ chồng bà trả đất cho cụ Kế và chuyển ra ngoài đê khu vực cống Long Tửu, thôn Xuân Trạch để làm ăn kinh tế. Năm 1996 cụ Ke và con trai là ông Bùi Văn Viện ra ở trên phần đất mà vợ chồng bà đã ở nhờ cụ Ke trước đây. Do nhà của ông Viện không giáp mặt đường nên vợ chồng bà và ông Viện đã thỏa thuận để ông Viện lấp ao của vợ chồng bà và hai bên đổi đất cho nhau (với thỏa thuận vợ chồng ông Viện 1/3 đất, vợ chồng bà 2/3 đất), vợ chồng ông Viện đã xây nhà ở ổn định đến nay. Việc đổi đất chỉ thỏa thuận miệng không lập văn bản.

Năm 1999 vợ chồng bà xây 2 gian cấp 4 cho con là cháu Bùi Thị Thủy làm quán cắt tóc. Diện tích đất của vợ chồng bà đã được đưa và bản đồ địa chính của xã Xuân Canh, mang tên chồng bà là Bùi Bằng Kiên. Năm 2006 chồng bà chết và không để lại di chúc. Đầu năm 2010 địa chính thôn Xuân Trạch đã đo lại diện tích đất của vợ chồng bà là 370m2 thuộc thửa số 17, tờ bản đồ 47, thôn Xuân Trạch, Xuân Canh. Tháng 3 năm 2010 mẹ chồng là cụ Sách đã chuẩn bị làm nhà trên đất của bà, bà đã làm đơn ra chính quyền nên chính quyền đã không cho phép cụ Sách xây nhà trên đất. Ngày 1/4/2010 cụ Sách đã xây tường bao quanh thửa đất. Bà yêu cầu Bà Sách dỡ hàng rào trả đất.

Bị đơn là cụ Hoàng Thị Sách trình bày: Vợ chồng cụ có 6 người con. Năm 1978 con trai cụ là Kiên kết hôn với bà Thanh ở vùng kinh tế mới tỉnh Lâm Đồng. Năm 1983 con út là Bùi Thị Hoa ra khu vực đê cống Long Tửu để khai hoang và làm kinh tế mới. Đất và nhà ở cụ giao lại cho ông Bùi Văn Chỉnh và Bùi Văn Kiên ở.

Việc bà Thanh khai là ở nhờ trên đất cụ Kế (em trai chồng cụ) là không đúng, vì cụ Kế không có đất ở gần nhà cụ. Việc vợ chồng bà Thanh được cấp đất giãn dân và đổi đất cho ông Bình như thế nào cụ không biết, ông Bình cũng không có đất ao ở gần nhà cụ. Gia đình cụ không xin đất giãn dân vì đất của gia đình cụ rất rộng.

Bà Thanh xuất trình văn bản đề ngày 22/8/2005 có chữ ký Hoàng Thị Sách, cụ xác định không phải là chữ ký của cụ. Năm 1992 vợ chồng cụ làm nhà cho vợ chồng chị Thanh ở ngoài đê khu vực cống Long Tửu để ở từ đó đến nay.

Việc ông Viện ở trên đất của cụ là do anh em ông Viện mâu thuẫn nên cụ cho ở nhờ. Năm 1997 ông Viện xây nhà 2 tầng trên đất là do cụ cho xây nhà, không có lập giấy tờ.

Diện tích đất ao 315m2 có nguồn gốc là đất ruộng, vợ chồng cụ mua lại của ông Nguyễn Trung Hàn và ông Mâu từ năm 1950 để lấy đất đắp nền nhà nên phần đất ruộng thành ao. Ông Hàn và ông Mâu đã chết từ lâu. Vợ chồng cụ và các con sống trên mảnh đất hiện nay (gồm cả ao đang tranh chấp) là 945m2 từ năm 1950 đến nay. Phần đất này được chia làm 2 phần trên bản đồ: Phần đất ở thuộc thửa 18 tờ bản đồ số 47, đất ao thuộc thửa số 17 tờ bản đồ 47. Gia đình cụ vẫn đóng thuế đầy đủ. Cụ không đồng ý với yêu cầu của bà Thanh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Văn Vĩnh (Viện) và bà Đào Thị Kim (Chinh) trình bàỵ: Ông bà thống nhất với lời khai của bà Thanh (nguyên đon) về việc ông bà đổi đất cho vợ chồng bà Thanh. Nguồn gốc đất ban đầu là của cụ Bùi Văn Ke mua của cụ Bùi Văn Chỉnh từ năm 1991, thời điểm mua không đo cụ thể, chỉ thỏa thuận miệng, giá 3.000.000đ. Năm 1996 cụ Kế cho vợ chồng ông bà ra ở riêng trên phần đất mua của cụ Chỉnh.

Ông bà đã thỏa thuận với vợ chồng bà Thanh để ông bà lấp ao của bà Thanh, sau đó gộp đất của ông bà với đất của bà Thanh lại và chia theo tỉ lệ vợ chồng bà nhận 1/3 đất còn vợ chồng bà Thanh nhận 2/3 đất (do đất của ông bà ở phía trong, ngõ lại hẹp, do muốn giáp với đường đi nên chấp nhận phần ít hơn). Việc đối đất chỉ thỏa thuận miệng, không lập biên bản, không xác nhận của chính quyền. Sau khi hai bên thỏa thuận xong thì ông bà đã xây nhà 2 tầng và ở từ đó đến nay.

Diện tích đất đang ở chưa được cấp giấy chứng nhận. Việc đổi đất với vợ chồng bà Thanh đã xong, hiện ông bà đã xây nhà và ở ổn định trên đất từ năm 1996, việc tranh chấp giữa bà Thanh với cụ Sách không liên quan đến ông bà, nên ông bà không có yêu cầu gì.

-  Chị Thủy, chị Hằng, anh Sơn có lời khai thống nhất với bà Thanh.

-  Ông Chỉnh, ông Bình, bà Xuyên, bà Nhẫn, bà Hoa có lời khai thống nhất với cụ Sách.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 15/2011/DS-ST ngày 18/7/2011, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh quyết định: Xác định diện tích 369,53m2 đất tại thửa 17 tờ bản đồ 47 (trị giá 7.390.600.OOOđ) và các tài sản trên đất gồm nhà cấp 4, móng tường nhà tắm và 1 cây nhãn thuộc quyền sử dụng, sở hữu của bà Thanh.

Buộc bà Sách phải tháo dỡ một đoạn tường gạch dài 18m, cao 0,4m. Buộc bà Xuyên di dời 1 cây sanh cảnh để trả đất cho bà Thanh.

Các công trình của ông Viện xây dựng trên đất gồm có 1 ngôi nhà 2 tầng trị giá 317.955.000d, 1 mái vẩy 2.514.000đ, do các bên đương sự không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

về hợp đồng đổi đất giữa gia đình ông Viện và gia đình bà Thanh, các bên không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

Bác các yêu cầu khác của đương sự.

Ngày 26/7/2011 cụ Hoàng Thị Sách kháng cáo.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 207/2011/DS-PT ngày 24/10/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã sửa Bản án dân sự sơ thẩm, như sau:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Đào Thị Thanh về việc khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với bị đơn cụ Hoàng Thị Sách và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông bà Bùi Văn Chỉnh, Bùi Văn Bình, Bùi Thị Xuyên, Bùi Thị Nhẫn, Bùi Thị Hoa, Bùi Thị Thủy, Bùi Thị Thúy Hằng, Bùi Ngọc Sơn, Bùi Văn Vĩnh (Viện), Đào Thị Kim (Chinh), Bùi Thị Ninh.

Xác định diện tích 369,53m2 đất trên có căn nhà xây (cấp 4) thuộc thửa số 17, tờ bản đồ số 47 thôn Xuân Trạch, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trị giá 7.390.600.000 đồng thuộc quyền sử dụng của gia đình bà Đào Thị Thanh (có sơ đồ kèm theo).

Xác định các tài sản trên đất gồm 01 nhà cấp bốn (quán cắt tóc) trị giá

7.515.000 đồng, móng tường nhà tắm trị giá 1.960.000 đồng và 01 cây nhãn trị giá 180.000 đồng thuộc quyền sở hữu của gia đình bà Đào Thị Thanh.

Buộc gia đình cụ Hoàng Thị Sách phải tháo dỡ 01 đoạn tường gạch dài 18m, cao 0,4m ở phía Bắc thửa đất (có 01 chiều phía Bắc giáp nhà đất của gia đình ông Thức và 01 chiều phía Nam giáp đất của bà Thanh).

Buộc bà Bùi Thị Xuyên di dời 01 cây sanh cảnh đi nơi khác để trả lại mặt bằng đất cho gia đình bà Thanh sử dụng.

Các công trình của gia đình ông Bùi Văn Vĩnh (Viện) xây dựng trên đất gồm có 01 ngôi nhà 02 tầng trị giá 317.955.000 đồng, 01 mái vẩy 2.514.000 đồng; các bên đương sự không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

về hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa gia đình ông Bùi Văn Vĩnh (Viện) và gia đình bà Đào Thị Thanh, và giữa ông Nguyễn Đường Bình và bà Nguyễn Thị Việt các bên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết. Neu các bên có tranh chấp có quyền khởi kiện vụ án dân sự khác.

Gia đình bà Đào Thị Thanh được quyền kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà ở và quyên sử dụng đât ở theo quy định của pháp luật vê nhà đât.

Bác các yêu cầu khác của các đương sự.

Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, cụ Hoàng Thị Sách có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Kháng nghị số 381/2014/DS-KN ngày 06/10/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2011/DS-ST ngày 18/7/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

XÉT THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì thấy rằng: Tại “Giấy xác nhận của gia đình” ngày 22/8/2005 do bà Thanh viết có nội dung vợ chồng bà Thanh được cấp đất giãn dân sau đó đổi đất với vợ chồng ông Nguyễn Đường Bình, bà Nguyễn Thị Việt để lấy đất ao của vợ chồng ông Bình, bà Việt; sau đó vợ chồng bà Thanh lại thỏa thuận đổi đất với ông Bùi Văn Viện. Tờ xác nhận có chữ ký của cụ Sách và chữ ký ông Nguyễn Đường Bình. Tuy chữ ký của cụ Sách đã được giám định nhưng cụ Sách vẫn không thừa nhận đó là chữ ký của cụ và yêu cầu tiếp tục giám định lại chữ ký của cụ trong tài liệu nêu trên. Đối với chữ ký và nội dung xác nhận của ông Nguyễn Đường Bình là người có đất ao đổi cho vợ chồng bà Thanh, hiện nay ông Bình đã chết nhưng Tòa án hai cấp chưa tiến hành giám định có đúng chữ ký và chữ viết của ông Bình trong tài liệu nêu trên hay không.

Bà Thanh khai vợ chồng bà đổi đất được cấp cho vợ chồng ông Bình, bà Việt để lấy diện tích đất ao gần nhà cụ Sách. Ông Bình đã chết năm 2006, còn bà Việt thì có lời khai mâu thuẫn về nguồn gốc diện tích đất hiện gia đình bà Việt đang ở. Tại Biên bản xác minh ngày 21/3/2010 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh thì bà Việt khai diện tích nhà đất bà đang ở có nguồn gốc đổi của em chông là ông Nguyên Đường Bảo, do ông Bảo được câp đất giãn dân. Tuy nhiên, tại “Đơn xác nhận đất” của bà Thanh viết ngày 01/4/2010, thì bà Việt lại xác nhận là vợ chồng bà Việt được chia diện tích đất ao nên đã đổi cho vợ chồng bà Thanh. Tại Biên bản làm việc ngày 30/9/2014, thì bà Việt lại không thừa nhận chữ ký và nội dung xác nhận tại “Đơn xác nhận đất” ngày 01/4/2010 nêu trên và không thừa nhận việc vợ chồng bà Việt đổi đất ao với vợ chồng bà Thanh, đồng thời khẳng định lại nhà đất bà đang ở hiện nay là đổi của em chồng là ông Bảo. Trong trường họp bà Việt có nhiều lời khai mâu thuẫn thì cũng cần tiến hành giám định chữ ký, chữ viết của bà Việt mới có cơ sở xác định vợ chồng bà Thanh có đổi đất với vợ chồng bà Việt hay không; mặt khác, cần phải thu thập chứng cứ đê làm rõ ông Bảo có được cấp đất giãn dân hay không, diện tích đât hiện gia đình bà Việt đang ở có đúng đổi của ông Bảo hay không; thu thập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của bà Việt để xem xét quá trình kê khai, đăng ký, nguồn gốc đất như thế nào, có khai đôi đât của bà Thanh hoặc đôi đât của ông Bảo hay không.

Cụ Sách xuất trình bản phô tô “Sổ mục kê” (tài liệu này không có trong hô sơ vụ án) và cho răng diện tích đất ao thuộc thửa 17, diện tích 315 không ghi tên chủ sử dụng, nhưng Tòa án lại công nhận đất này là của bà Thanh là không đúng. Theo Công văn số 72/CV-UBND ngày 11/7/2014 của Ủy ban nhân dân xã Xuân Canh có nội dung: “Sổ mục kê ruộng đất xã Xuân Canh do Công ty đo đạc lập có ghi thửa đất số 17 tờ bản đồ số 47 diện tích đất ao là 315m2 chủ sử dụng đất để trống. Hồ sơ trên xã Xuân Canh không cung cấp cho cụ Sách, lý do để trống chủ sử dụng đất trong thời gian lập bản đồ năm 1995 vì có chủ sử dụng đất còn thay đổi nên Công ty đo đạc không lập theo chủ sử dụng đất theo hiện trạng.

Theo tài liệu gia đình bà Đào Thị Thanh có cung cấp cho thôn Xuân Trạch và xã Xuân Canh để xác định chủ sử dụng đất tại thửa 17 tờ bản đồ số 47 gồm: Biên bản xác định mốc giới và tách đất ở có chữ ký của các bên từ ngày 21/3/1999; Giấy xác nhận của gia đình cụ Sách ngày 22/8/2005; Bản di chúc của vợ chồng cụ Bùi Văn Te và vợ là cụ Hoàng Thị Sách cho các con đất ngày 15/8/2006; Đơn xác nhận về việc đổi đất giữa hộ gia đình bà Việt với hộ gia đình bà Thanh. Vì vậy khi xảy ra tranh chấp xã Xuân Canh có căn cứ hồ sơ tại xã và hồ sơ gia đình cung cấp và ý kiến các Hội nghị để xác định thửa đất đang tranh chấp trên có tên chủ sử dụng đất là cụ Bùi Văn Tồ và bà Đào Thi Thanh”.

Như vậy, theo nội dung Công văn nêu trên thì khi xảy ra tranh chấp ủy ban nhân dân xã Xuân Canh đã căn cứ vào các tài liệu do bà Thanh xuất trình (04 tài liệu) và hồ sơ tại xã để xác định chủ sử dụng đất, nhưng những tài liệu trên hiện nay các đương sự còn có tranh chấp về nội dung cũng như không thừa nhận chữ ký của mình như đã phân tích ở trên, Ủy ban nhân dân xã Xuân Canh căn cứ vào hồ sơ tại xã là những tài liệu gì thì cũng chưa cung cấp cho Tòa án. Thực tế ai là người sử dụng diện tích đất ao, quá trình kê khai đăng ký diện tích đất ao the hiện qua sổ mục kê, sổ địa chính và các tài liệu quản lý khác được lưu giữ tại các cơ quan quản lý về đất đai như thế nào... thì Tòa án hai cấp vẫn chưa thu thập, nên chưa có đủ căn cứ để đánh giá về quá trình kê khai, đăng ký đất, quá trình sử dụng đất.

Trong hồ sơ còn có “Bản di chúc” là tài liệu phô tô ghi ngày 15/8/2006 có chữ ký của cụ Te, cụ Sách và một số người khác, nhưng di chúc này do ai cung cấp, di chúc có giá trị pháp lý không thì Tòa án hai cấp chưa hỏi các đương sự, chưa yêu cầu cung cấp bản chính và cũng chưa đánh giá, nhận định gì về nội dung Bản di chúc này là thiếu sót.

Do một số tình tiết nêu trên chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm thu thập chứng cứ để làm rõ, nhưng đã xác định diện tích đất tranh chấp là của bà Thanh là chưa đủ căn cứ.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 1 Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận Kháng nghị số 381/2014/DS-KN ngày 06/10/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 207/2011/DS-PT ngày 24/10/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2011/DS-ST ngày 18/7/20 n của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Đào Thị Thanh với bị đơn là cụ Hoàng Thị Sách và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 535/2014/DS-GĐT ngày 19/12/2014 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án