QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 64/2014/KDTM-GĐT NGÀY 27/11/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

TÒA KINH TẾ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 27 tháng 11 năm 2014, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thưong mại tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa:

Nguyên đơn: Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long, có trụ sở tại số 9 Võ Văn Tần, phường 6, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Chi, sinh năm 1935 và anh Nguyễn Công Minh, sinh năm 1965, cùng trú tại 237B Phạm Hùng, phường 9, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Công Tâm, sinh năm 1969, cháu Nguyễn Kim Ngân, sinh năm 1991, cháu Nguyễn Ngọc Trâm, sinh năm 1996, cùng trú tại 23 7B Phạm Hùng, phường 9, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.

- Chị Văn Kim Lan, sinh năm 1965, trú tại 384A, ấp Phước Ngưon A, xã Phước Tậu, huyện Long Hồ, tỉnh-Vĩnh-Long,

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 13/8/2008, lời trình bày của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án và các tài liệu chứng cứ khác do nguyên đơn xuất trình thì thấy:

Ngày 03/01/2007, Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) và bà Nguyễn Thị Chi, anh Nguyễn Công Minh đã ký Hợp đồng tín dụng số NA001007/HĐTD, theo đó Ngân hàng cho bà Chi và anh Minh vay số tiền 100.000.000 đồng; mục đích để mua bán phụ tùng ôtô với thời hạn 12 tháng.

Để bảo đảm cho khoản vay trên, bà Nguyễn Thị Chi và anh Nguyễn Công Minh đem tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tọa lạc tại số 237B Phạm Hùng, phường 9, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L688030 do UBND thị xã Vĩnh Long cấp ngày 03/4/2003 cho hộ bà Nguyễn Thị Chi) thế chấp cho Ngân hàng theo Họp đồng thế chấp bằng giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 001007/HĐTC, được ƯBND phường 9, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long chứng thực ngày 04/01/2007.

Quá trình thực hiện họp đồng tín dụng, bà Chi đã trả được 5.000.000 đồng nợ gốc và thanh toán lãi đến ngày 05/10/2007. Do bà Chi, anh Minh vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng đã khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Chi, anh Minh phải thanh toán số tiền gốc 95.000.000 đồng và lãi phát sinh tính đến ngày 27/12/2010 là 54.952.700 đồng.

Quá trình giải quyết vụ án, bà Chi, anh Minh đã thừa nhận số nợ gốc, nợ lãi như đại diện Ngân hàng trình bày

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 42/2010/KDTM-ST ngày 27/12/2010, Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long do Ngân hàng phát triển nhà Đồng băng sông Cửu Long - Chi nhánh tỉnh Vĩnh Long đại diện.

Buộc bà Nguyễn Thị Chi và anh Nguyễn Công Minh phải thanh toán cho Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (do Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long - Chỉ nhánh tỉnh Vĩnh Long đại diện) tiên vôn vay 95.000.000 đồng và lãi suất 54.952.700 đồng. Tổng cộng 149.952.700 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực và Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cừu Long (do Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long - Chi nhánh tỉnh Vĩnh Long đại diện) thì bà Nguyễn Thị Chi và anh Nguyên Công Minh còn phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2, Điều 305 của Bộ Luật dân sự cho đến khi thi hành án xong.

2. Chấp nhận một phân yêu cầu độc lập của anh Nguyễn Cổng Tâm

2.1. Vô hiệu một phần Hợp đồng thế chấp sổ 001007/HĐTC ngày 03/1/2007 đã ký giữa bà Nguyễn Thị Chỉ và anh Nguyễn Công Minh với Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long đoi với phẩn tài sản của anh Nguyễn Công Tâm trong thửa đất sổ 15, tờ bản đồ số 37, diện tích 142,7 m2 loại đất tho vườn và căn nhà gắn liền trên đất tọa lạc tại 237B Phạm Hùng, phường 9, thành phổ Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long do hộ bà Nguyễn Thị Chỉ đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

2.2. Giữ nguyên phần Hợp đồng thế chấp sổ 001007/HĐTC ngày 03/1/2007 đã ký giữa bà Nguyễn Thị Chi và anh Nguyễn Công Minh với Ngân hàng phát triến nhà Đồng bằng sông Cửu Long đối với phần tài sản của bà Nguyễn Thị Chi và anh Nguyễn Công Minh trong thửa đất sổ 15, tờ bản đồ so 37, diện tích 142,7 m2 loại đất thổ vườn và căn nhà gắn liền trên đất tọa lạc tại 237B Phạm Hùng, phường 9, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long do hộ bà Nguyên Thị Chi đứng tên Giấy chứng nhận quyển sử dụng đất.

Buộc bà Nguyên Thị Chi và anh Nguyễn Công Minh phải giao cho Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (do Ngân hàng phát triển nhà Đông băng sông Cửu Long - Chi nhảnh tỉnh Vĩnh Long đại diện) phần tài sản của bà Chỉ và anh Minh trong khôi tài sản thế chấp gom: thửa đất số 15, tờ bản đồ sổ 37, diện tích 142,7 m2 loại đất thổ vườn và căn nhà cấp 4 diện tích 120 m gắn lien trên đất gắn liền trên đất tọa lạc tại 237B Phạm Hùng, phường 9, thành phô Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long đế Ngân hàng phát trỉến nhà Đồng bằng sông Cửu Long - Chi nhánh tỉnh Vĩnh Long yêu cẩu to chức có thấm quyển bán đấu giá theo quy định tại Điều 59, Điều 68 của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 thảng 12 năm 2006 của Chính Phủ nhằm thu hồi số nợ nêu trên cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật.

2.3.Các đương sự được quyền kiện một vụ kiện khác để xác định giá trị tài sản của từng người trong khối tài sản chung của gia đình bà Nguyên Thị Chi khi các đương sự có yêu cầu.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của các đương sự.

Ngày 05/01/2011, bà Nguyễn Thị Chi có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Quyết định đình chỉ xét xử phúc vụ án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 95/2011/QĐ-PT ngày 06/7/2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã căn cứ vào các Điều 260 và khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định:

Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại thụ lý so: 44/2011/TLPT-KDTM ngày 07/4/2011.

Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm sổ:42/2010/KDTM-ST ngày 27/12/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thấm này.

Ngày 12/9/2012, Cục thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Long có Công văn sô 184/CV.THA kiến nghị Tòa án án nhân tối cao xem xét Quyết định phúc thẩm và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 25/2014/KDTM-KN ngày 20/6/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mạisơ thẩm số 42/2010/KDTM-ST ngày 27/12/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Đe nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 42/2010/KDTM-ST ngày 27/12/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm lại theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Mặc dù quá trình giải quyết vụ án, bà Chi, anh Minh đã thừa nhận số nợ gốc, nợ lãi như đại diện Ngân hàng trình bày. Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc bà Chi, anh Minh có trách nhiệm thanh toán số nợ nêu trên là có căn cứ. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thấm tuyên: “Ke từ ngày bản án có hiệu lực và Ngân hàng phát trỉến nhà Đồng bằng sông Cửu Long (do Ngân hàng phát trỉến nhà Đồng bằng sông Cửu Long - Chi nhánh tỉnh Vĩnh Long đại diện) thì bà Nguyên Thị Chi và anh Nguyên Công Minh còn phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2, Điều 305 của Bộ Luật dân sự cho đến khỉ thỉ hành án xong” là không đúng. Trường hợp này cần phải tuyên buộc bà Chi, anh Minh tiếp tục phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng trên số nợ gốc kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả hết số nợ gốc.

Đối với phần xử lý tài sản thế chấp, thấy rằng: Tại Hợp đồng thế chấp số 001007/HĐTC, bà Nguyễn Thị Chi và anh Nguyễn Công Minh đã thế chấp giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 15, tờ bản đồ số 37, diện tích 142,7 m2 loại đất thổ vườn, số 23 7B đường Phạm Hùng, phường 9, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Tuy nhiên, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND thị xã Vĩnh Long cấp ngày 03/4/2003 thì thửa đất này được cấp cho hộ bà Nguyễn Thị Chi. Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ để làm rõ ở thời điểm được cấp đất có những ai là thành viên trong hộ và có quyền lợi đối với thửa đất số 15, tờ bản đồ số 37 nói trên; các thành viên trong số hộ khấu với thành viên trong hộ có quyền sử dụng đất có là một hay không? Nếu theo sổ hộ khẩu thì hộ bà Chi gồm có: anh Nguyễn Công Minh, chị Văn Kim Lan (chị Lan là vợ anh Minh nhưng đã ly hôn và không có yêu cầu gì đối với tài sản này), anh Nguyễn Công Tâm, các cháu Nguyễn Kim Ngân (sinh năm 1991) và cháu Nguyễn Ngọc Trâm (sinh năm 1996), nhưng Họp đồng thế chấp chỉ có bà Chi và anh Minh ký. Như vậy, việc thế chấp tài sản không có sự đồng ý chấp thuận của các thành viên khác trong hộ gia đình là anh Tâm và cháu Ngân (tại thòi điểm thế chấp năm 2007 đã trên 15 tuồi) là không đủng quy định tại khoản 2 Điều 109 Bộ luật dân sự “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý” và khoản 2 Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai “Hợp đồng chuyển đối, chuyến nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng chung của hộ gia đình phải được tât cả các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự trong hộ gia đình đó thống nhât và kỷ tên hoặc cỏ văn bản ủy quyển theo quy định của pháp luật về dân sự

Do đó, căn cứ Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005 thì hợp đồng thế chấp nói trên bị vô hiệu toàn bộ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm quyết định họp đồng vô hiệu một phần là không đúng. Đồng thời cách tuyên không cụ thể phần diện tích nhà đất xác định bị vô hiệu, nên cũng không thi hành án được.

Đối với quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, mặc dù đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhưng bà Chi vẫn vắng mặt tại các phiên tòa ngày 22/5/2011 và ngày 06/7/2011 nên Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự  để quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm là đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011).

QUYẾT ĐỊNH

1.Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 42/2010/KDTM-ST ngày 27/12/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 64/2014/KDTM-GĐT NGÀY 27/11/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án