QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 67/2014/KDTM-GĐT NGÀY 25/12/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 

TÒA KINH TẾ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 25 tháng 12 năm 2014, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng tín dụng, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Việt Á; có trụ sở tại số 31 Lý Thường Kiệt, phường 7, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, do ông Hồ Phước Hậu - Phó Phòng quan hệ khách hàng làm đại diện theo Giấy ủy quyền số 119/ƯQ - CTHĐQT/11 ngày 20/5/2011 của Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Bị đơn: Công ty TNHH xây dựng - Thương mại dịch vụ Đức Khoa; có trụ sở tại số 31A Phan Văn Sửu, phường 13, quận Tân Bình, thành phổ Hồ Chí Minh, do ông Vũ Thanh Diên- Giám đốc Công ty làm đại diện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Phạm Công Thắng và bà Doãn Thị Thanh Thúy; cùng trú tại 33/4P Quang Trung, phường 8, quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 22/3/2011 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thì thấy:

Ngân hàng TMCP Việt Á- Chi nhánh Tân Bình (sau đây viết tắt là Ngân hàng) và Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại dịch vụ Đức Khoa (sau đâyviết tắt là Công ty Đức Khoa) ký Hợp đồng cấp hạn mức tín dụng số 187/09/VAB-TB/HĐCHM ngày 09/12/2009, cụ thể bằng Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 187/09/VAB-TB/HĐNH-01 ngày 14/4/2010, số tiền cho vay 4.200.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng (15/4/2010-15/4/2011), lãi suất 1,4%/tháng, lãi suất thay đổi 03 tháng một lần kể từ ngày bên vay nhận tiền vay lần đầu, lãi suất quá hạn 150% lãi suất trong hạn; lãi phạt chậm trả bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn, mục đích: để bổ sung vốn lưu động.

Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, nhà ở gắn liền với đất tại địa chỉ 111 đường Hoàng Ngọc Phách, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BA 034754 do ủy ban nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 07/4/2010 cho ông Phạm Công Thắng và bà Doãn Thị Thanh Thúy), ông Thắng, bà Thúy đem thế chấp theo Hợp đồng thế chấp tài'sản của bên thứ ba so 1270/10/VAB-TB/TB/TCBLBDS.01 ngày 14/4/2010. Hợp đồng được công chứng và đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật.

Công ty Đức Khoa chỉ trả lãi đến tháng 12/2010, Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, mời lên làm việc tạo điều kiện cho bên vay trả nợ nhưng bên vay vẫn không trả, vi phạm nghĩa vụ trả nợ.Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn thanh toán số tiền 4.968.108.665 (tính đến ngày 25/8/2011), trong đó; nợ gốc: 4.200.000.000 đồng; lãi trong hạn: 289.058.000 đồng; lãi quá hạn: 438.501.000 đồng; phạt chậm trả lãi: 40.549.665 đồng và tiền lãi phát sinh cho đên khi thanh toán hết nợ. Nêu bị đơn không thanh toán thì yêu câu phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Người đại diện của bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng của Tòa án, không có văn bản nêu ý kiến về việc khởi kiện.

Vợ chồng ông Phạm Công Thắng và bà Doãn Thị Thanh Thúy là người có quyên lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: ngày 14/4/2010, vợ chồng Ông, Bà có đến Ngân hàng Việt Á để thông qua Công ty Đức Khoa vay 4.200.000.000 đồng, có thê chấp nhà và đất tại 111 Hoàng Ngọc Phách, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Thắng, bà Thúy đã đóng lãi được 9 tháng. Nay, Ong, Bà không có khả năng trả nợ nên đồng ý để Ngân hàng phát mại tài sản thế chấp thu hồi nợ.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 1463/2011/KDTM-ST ngày 25/8/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

1/ Buộc bị đơn Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại dịch vụ Đức Khoa có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn Ngân hàng TMCP Việt Á tổng số nợ gốc, lãi và tiền phạt chậm trả lãi tính đến ngày 25/8/2011 của Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 187/09/VAB-TB/HĐNH-01 ngày 14/4/2010 và Hợp đồng cấp hạn mức tín dụng số 187/09/VAB-TB/HĐCHM ngày 09/12/2009 là 4.968.108.665 đồng, trong đó: sổ nợ gốc là 4.200.000.000 đồng, lãi trong hạn là289.058.000       đồng, lãi quá hạn là 438.501.000 đằng, tiền phạt chậm trả lãi là 40.549.665 đồng.

Ngoài ra bị đon còn phải trả cho nguyên đơn sổ tiền lãi phát sinh từ ngày 26/8/2011 cho đến khi thanh toán xong so tiền vốn gốc theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

Trả ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

2/ Sau khi án có hiệu lực pháp luật, nếu bị đơn Công ty TNHHXăy dựng - Thương mại dịch vụ Đức Khoa không thanh toán đủ cho nguyên đơn Ngân hàng TMCP Việt Á sổ tiền nêu trên thì Cục thi hành án dân sự thành phố Hồ Chỉ Minh sẽ tiến hành phát mại quyên sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tọa lạc tại so 111 đường Hoàng Ngọc Phách, phường Phủ Thọ Hòa, quận Tân Phủ, thành phổ Hồ Chỉ Minh do ông Phạm Công Thắng và bà Doãn Thị Thanh Thúy là chủ sở hữu sử dụng họp pháp theo Giấy chủng nhận quyển sử dụng đất, quyên sở hữu nhà ở và tài sản khác gần liên với đất so vào so cap GCN: CH02727 do ủy ban nhân dân quận Tân Phú cấp ngày 07/4/2010 để trả nợ cho nguyên đơn theo hợp đồng thế chấp sổ 1270/10/VAB-TB/TCBLBĐS ngày 14/4/2010.

Sau khi trừ chi phí phát mãi nếu thiếu thì bị đơn sẽ trả tiếp cho nguyên đơn nếu dư thì trả lại cho ông Phạm Công Thắng và bà Doãn Thị Thanh Thủy.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 17/5/2013, ông Lê Hoàng Giang và bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh có đơn đề nghị xem xét bản án sơ thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 44/2014/KN-KDTM ngày 27/8/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 1463/2011/KDTM-ST ngày 25/8/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đồ nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phổ Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy đinh của pháp luật.

Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại dịch vụ Đức Khoa (sau đây viết tắt là Công ty Đức Khoa) có trụ sở đăng ký kinh doanh tại địa chỉ số 31A Phan Văn Sửu, phường 13, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh và chưa giải thể (theo Công văn số 2496/PĐKKD-KT ngày 14/6/2011 của Phòng đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh). Nhưng theo Công an phường 7, quận Tân Bình, thành phô Hồ Chí Minh cho biết thì Công ty Đức Khoa đã chuyển đi khỏi địa chỉ 31A Phan Văn Sửu, phường 13, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 10/2010 đến nay, tức là chuyển đi trước thời điểm Ngân hàng khởi kiện (ngày 22/3/2011). Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng tại cả 3 địa chỉ là trụ sở đăng ký kinh doanh; Uy ban nhân dân phường nơi có trụ sở và trụ sở Tòa án cấp sơ thẩm nhưng Công ty Đức Khoa đều vắng mặt nên Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn (theo khoản 2 Điều 200, khoản 3 Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự).

Tuy nhiên, tại Giấy đăng ký kinh doanh của Công ty Đức Khoa còn thể hiện địa chỉ của người đại diện theo, pháp luật là ông Vũ Thanh Diên (hộ khẩu đăng ký thường trú tại 141/6 ấp Trung Chánh 2, xã Trung Chánh, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành xác minh tại địa chỉ này mà đã cho rằng bị đơn cố tình giấu địa chỉ để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ (theo quy định tại tiểu mục 8.6 mục 8 phần I Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao), từ đó tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là chưa đủ căn cứ.

Đối với tài sản bảo đảm cho khoản vay của Công ty Đức Khoa tại Ngân hàng là quyền sử dụng đất, nhà ở gắn liền với đất tại địa chỉ 111 đường Hoàng Ngọc Phách, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BA 034754 do ủy ban nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 07/4/2010 cho ông Phạm Công Thắng và bà Doãn Thị Thanh Thúy). Tuy nhiên, theo các tài liệu gửi kèm đơn đê nghị giám đôc thâm của ông Lê Hoàng Giang và bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh thì nguồn gốc của nhà, đất nêu trên là thuộc sở hữu của Ông, Bà theo Giấy chứng nhận quyên sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số 5018/2003 do ủy ban nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/7/2003.

Theo Họp đồng ủy quyền ngày 26/6/2009, ông Giang và bà Hạnh ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Minh được quyền chuyển nhượng nhà, đất nêu trên (Hợp đồng ủy quyền được công chứng). Sau đó, bà Minh đã chuyên nhượng nhà, đất nêu trên cho ông Dương Chấn Hưng. Ông Phạm Công Thăng và bà Doãn Thị Thanh Thúy là người cuối cùng nhận chuyển nhượng đã được sang tên nhà, đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đât, quyên sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 07/4/2010 nêu trên. Sau đó, ông Thăng, bà Thúy đem thế chấp cho Ngân hàng. Họp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch theo quy định.

Ông Giang cho rằng ông không ký họp đồng ủy quyền ngày 26/6/2009. Chữ viết Lê Hoàng Giang và dau vân tay của Ông tại hợp đồng ủy quyền là giả. Điều này phù hợp với Kết luật giám định số 482/KLGĐ-TT ngày 07/8/2010 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh xác minh dâu vân tay, chữ viết của ông Lê Hoàng Giang trên hợp đồng ủy quyền trên là giả. Do đó, họp đồng ủy quyền là không họp pháp, nên việc chuyên nhượng của bà Minh cho những người khác là không hợp pháp. Dân đên việc ông Thăng, bà Thúy đem nhà, đất trên thế chấp cho Ngân hàng cũng không họp pháp.

Căn cứ vào Đơn xin xác nhận hộ khẩu thường trú ngày 08/5/2013; sổ hộ khẩu của hộ ông Giang...gửi kèm theo đơn đề nghị giám đốc thẩm thì, thực tế ông Giang, bà Hạnh vẫn ở tại nhà đất trên từ năm 1980 đến nay. Khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh, làm rõ nguồn gốc nhà, đất nêu trên để đưa ông Giang, bà Hạnh vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trong thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011);

QUYẾT ĐỊNH

1- Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 1463/2011/KDTM-ST ngày 25/8/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh;

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 67/2014/KDTM-GĐT ngày 25/12/2014 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án