QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 68/2014/KDTM-GĐT NGÀY 26/12/2014 VỀ VIỆC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 

TÒA KINH TẾ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 26 tháng 12 năm 2014, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng tín dụng, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam (EXIMBANK); có trụ sở tại số 07 Lê Thị Hồng Gấm, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh; do ông Nguyễn Trọng Nghĩa làm đại diện theo giấy ủy quyền số 108/2009/EIB/UQ-TGĐ ngày 01/8/2009 của Tổng giám đốc EXIMBANK.

Bị đơn: ông Hoàng Thanh Trường; có địa chỉ tại số 262/14 Phạm Văn Hai, phường 3, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 28/10/2010 và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, thì thấy:

Ngày 22/7/2008, Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh quận 11 - Phòng giao dịch Tân Bình (sau đây gọi là Ngân hàng) cho ông Hoàng Thanh Trường vay 500.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 1015-LW- 20080.1150 kiêm khế ước nhận nợ ngày 23/7/2008. Mục đích vay: bô sung vôn kinh doanh; thời hạn vay 12 tháng (kể từ ngày giải ngân của khê ước nợ đâu tiên), lãi suất 1,66%/tháng, lãi suit quá hạn: 150%/tháng so với lãi suât trong hạn, Lãi phạt chậm trả: (150% LS cho vay trong hạn) X số ngày chậm trả lãi chậm trả.Để bảo đảm cho khoản tiền vay trên, ông, Hoàng Thanh Trường đã ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gan liền với đất số 29/EIB-Q11- PGDTB/TC/2008 ngày 22/7/2008, tài sản thế chấp là diện tích 160m2 đất tại thửa đất số 524, tờ bản đồ số 19 tại xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 493/QSDĐ/1B ngày 24/5/2002. Do ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Nguyễn Thị Loan, được điều chỉnh mang tên ông Hoàng Thanh Trường (được tặng cho theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 016292/HĐ-TCĐ ngàỳ 17/4/2008 có xác nhận cua Phòng công chúng số 4 thành phố Hồ Chí Minh). Họp đông thê châp này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật; bảo đảm cho khoản tiền vay 500.000.000 đông và các khoản lãi vay, lãi quá hạn, phí (nếu có) theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình thực hiện họp đồng, do ông Hoàng Thanh Trường không trả nợ đúng như hai bên đã thỏa thuận trong hợp đông, nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Hoàng Thanh Trường phải thanh toán tống số tiền còn nợ là 730.319.410 đồng; trong đó số tiền nợ gốc là: 500.000.000 đồng, tiền lãi là 151.419.834 đồng, lãi quá hạn là 39.851.389 đông, lãi phạt chậm trả là 39.048.187 đồng (tạm tính đến ngày 30/9/2010).

Đối với bị đon ông Hoàng Thanh Trường, Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng không tìm thấy địa chỉ nơi ông Trường thường trú nên không có bản tự khai.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 1336/2011/KDTM-ST ngày 12/8/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

“Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn

Ông Hoàng Thanh Trường phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam số tiền là 923.367.129 đông, phát sinh từ Hợp đông tín dụng số 1015-LA V-20080.1150 ngày 22/7/2008, gồm:

Vốn vay: 500.000.000 đồng

Lãi phát sinh từ vốn vay: 423.367.129 đồng.

Ông Hoàng Thanh Trường còn tiếp tục phải chịu lãi phát sinh trên số nợ vốn vay tính từ ngày 13/8/2011 cho đến khỉ nợ vốn vay được trả xong, mức lãi suất là 2,85%/tháng.

Việc thanh toán được thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Khi ông Hoàng Thanh Trường trả xong nợ thì Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ hồ sơ (bản chính) tài sản thế chấp cho ông Hoàng Thanh Trường.

Nếu ông Hoàng Thanh Trường không thanh toán được nợ thì cơ quan thi hành án có tham quyển tiến hành phát mại tài sản thê chấp đê thu hôi nợ cho Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam, cụ thể là:

Quyền sử dụng 160m2 đất tại thửa đất sổ 524, tờ bản đồ sổ 19 tại xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, thành pho Hồ Chí Minh theo Giấy chímg nhận quyền sử dụng đất có sổ vào sổ là 493/QSDĐ/IB do ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, thành phổ Hồ Chí Minh cấp ngày 24/5/2002. Căn cứ Hợp đồng thế chấp quyền sử

dụng đất, tài sản gẳn liền với đất số 29/EIB-Q11-PGDTB/TC/2008 ngày 22/7/2008 được Phòng Công chủng số 4 thành phổ Hồ Chí Minh chứng nhận sổ công chứng 027221, quyển số 2TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/7/2008; Đon yêu cầu đăng ký thế chấp quyên sử dụng đất, tài sản găn liên với đất được úy ban nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận ngày 23/7/2008

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/01/2014, bà Trần Thị Mỹ Bình có đơn đề nghị xem xét lại bản án sơ thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 36/2014/KN-KDTM ngày 05/8/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 1336/2011/KDTM-ST ngàỵ 12/8/201 i của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Toà Kinh tế Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

1. Về tố tụng:

Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xác minh địa chỉ của ông Hoàng Thanh Trường nơi có hộ khẩu thường trú tại số 262/14 Phạm Văn Hai, phường 3, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh và địa chỉ nơi có tài sản thế chấp tại xã Tân Xuân (nay là xã Trung Chính), huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Ket quả xác minh cho thấy tại các địa chỉ này bị đơn đã bỏ đi khỏi địa? _ phương từ năm 2000, tức là trước thời điểm nguyên đơn khởi kiện (riạảỹ ^ 28/10/2010). Như vậy, tại thời điểm nguyên đơn khởi kiện và (sau đó) trong cpló 5 trình giải quyết vụ án đều không xác định được địa chỉ của bị đơn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tiến hành niêm yết giấy triệu tập tại các địa chỉ trên hành xét xử vắng mặt bị đơn là không đúng, vỉ chưa xác định được bị án tình giấu địa chỉ để trốn tránh nghĩa vụ.

2. Về tài sản thế chấp:

Theo các tài liệu do Chi cục thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh cung cấp thì thấy: Trên diện tích đất mà ông Trường thế chấp tại Ngân hàng (theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 29/EIB-Q11-TC/2008 ngày 22/7/2008. Có diện tích 160 m2, thuộc thửa đất số 524, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh nay thuộc thửa đất số 194, tở bản đồ số 24 tại 46/5 Y, tổ 16, ấp Mỹ Hòa 1, xã Trung Chính, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh) có 02 dãy nhà với 8 phòng trọ do ông Lê Văn Thảo quản lý, sử dụng và một căn nhà cấp 4 do bà Trần Thị Mỹ Bình quản lý, sử dụng. Theo Biên bản xác minh ngày 24/6/2013 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phổ Hồ Chí Minh, chính quyền địa phương cho biết những căn nhà trên được xây dựng từ năm 2001 đên năm 2002 và chưa được chứng nhận quyền sở hữu vì đang có tranh châp nên địa phương không xãc định được ai là chủ sở hữu nhà? Theo bà Bình và ông Thảo thì bà Nguyễn Thị Thanh Thủy (là mẹ của anh Trường) mua đất của bà Loãn (giấy viết tay, chưa sang tên nhưng không cung cấp tài liệu này); Sau đó, bà Thủy bán đât cho bà Bình và ông Thảo (bà Bình cung cấp một bản hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhà và đất ngày 19/4/2008, giữa bà Nguyên Thị Thanh Thủy với bà Trân Thị Mỹ Bình. Bà Thủy (bên bán nhà) đã nhận đủ tiền; bà Bình (bên mua nhà) cũng đã nhận nhà và quản lý từ đó đến nay, có xác nhận của người làm chứng (Trân Thị Thanh Tân và Tổ trưởng Tổ 16 Lê Văn Thi). Hợp đồng chuyển nhượng quỵền sử dụng nhà và đất giữa bà Thủy với bà Bình có sau Họp đông tặng cho quyên sử dụng đât (không có tài sản găn liên với đất) ngày 17/4/2008, bà Nguyễn Thị Loan, ông Trần Văn Ba tặng anh Hoàng Thanh Trường thửa đất so 524, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại xã Tân Xuân (nay là xã Trung Chính), huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh).

Như vậy, tại thời điểm Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết vụ án thì trên diện tích 160 m2 đất, thuộc thửa đất số 524, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc thửa đất số 194, tờ bản đồ số 24 tại 46/5 Y, tổ 16, ấp Mỹ Hòal, xã Trung Chính, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh) đã có 02 dãy nhà với 8 phòng trọ và căn nhà cấp 4 do ông Thảo và bà Bình quản lý, sử dụng. Nhưng Tòa án cấp sơ thấm không tiến hành xem xét, xác minh thực tế nên không đưa bà Bình và ông Thảo vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tô tụng, cần phải làm rõ việc chuyên nhượng cũng như việc tặng cho quyên sử dụng 160 m2 đât nêu trên như thế nào? Nhà trên đất của ai? Xây dựng từ khi nào? Có trước hay sau khi thế châp?...Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích họp pháp của các bên theo đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011);

QUYẾT ĐỊNH

1- Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 1336/2011/KDTM-ST ngày 12/8/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh;

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 68/2014/KDTM-GĐT ngày 26/12/2014 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án