QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 97/2014/DS-GĐT NGÀY 05/03/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 05 tháng 03 năm 2014, tại Trụ sở Cơ quan thường trực của 'loa án nhân dân tối cao tại phía Nam đã mở phiên tòa giám dổc thâm xét xử vụ án “'Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1973.

Địa chỉ: ấp Phú Xuân A, xã Phú Hữu A, huyện Châu 'Thành, tỉnh I lậu Giang.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn út, sinh năm 1968.

Địa chỉ: ấp Phú Xuân A, xã Phú Hữu A, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Văn Tám, sinh năm 1965.Địa chỉ: ấp Phú Xuân A, xã Phú Hữu A, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.

Nguyễn Thị Ý, sinh năm 1953. Địa chỉ: ấp Phú Tân, xã Phú Tân, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.

Nguyễn Thị Hoa, sinh năm 1950. Địa chỉ: ấp Phú Lợi, xã Phú Hữu, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.

Nguyễn Văn Đức, sinh năm 1981. Địa chỉ: ấp Phú Xuân A, xã Phú Hữu A, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.

Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triền nông thôn huyện Châu Thành - Người đại diện theo ủy quyền: Trương Quốc Phong.

NHẬN THẤY

Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Hùng trình bày:

Nguồn gốc đất tranh chấp là của cha mẹ là cụ Nguyễn Văn Sáu và cụ Trần Thị Mậu. Những người con của hai cụ gồm: Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Ý, Nguyễn Văn Mách (chết năm 2007), Nguyễn Thị Bảy (chết năm 2002), Nguyễn Văn Tám, Nguyễn Văn út, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Đức. Cụ Mậu chết năm 1976. Ngày 22/04/1992 cụ Nguyễn Văn Sáu lập “Tờ phân chia di sản” cho các con. Theo tờ phân chia này cụ Sáu chia cho các con trai (không chia đất cho các con gái) các phần đất ở nhiều nơi khác nhau, trong đó có một phần đất 3600m2, tọa lạc ấp Phú Xuân A, xã Phú Hữu A, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang thì cụ Sáu chia làm hai. Diện tích 1800m2 giáp với Tư Tính cụ Sáu chia cho Nguyền Văn Đức, phần 1800m2 còn lại có một cái nhà cụ Sáu không phân chia mà dế lại dưỡng già, sau khi cụ chết thì tùy vào các con ai trông coi và thờ phượng thì được sử dụng, không được sang bán. Sau khi cụ Sáu chết được 3 tháng thì ông Hùng đã vào quản lý, canh tác đối với phần đất hương hỏa trên, có diện tích khoảng 1800m2. Năm 1995 ông Nguyễn Văn út đi kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dối với toàn bộ diện tích 3600m2. Sau dó ông Hùng yêu cầu ông Út tách quyền sứ dụng đất, ông út có làm tờ tặng cho đất nhưng không thực hiện. Vì vậy ngày 08/10/2008 ông Nguyễn Văn Hùng khới kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn Út tách quyền sử dụng đất diện tích 1800 m2 cho ông tách quyền sử dụng đất diện tích 1800 m2 cho ông.

Bị đơn ông Nguyễn Văn Út có đơn phản tố trình bày:

Khi cụ Sáu chết, ông út là người ở chung nhà với cụ, sau dó ông Nguyễn Văn Hùng về nên ông út và ông Hùng cùng canh tác chung. Năm 1993 ông Nguyễn Văn Đức đã bán lại cho ông Nguyễn Văn út phần di sản dược phân chia có diện tích khoảng 1800m2 liền kề với phần đất mà ông út và ông Hùng đang canh tác. Năm 1995 ông út làm thủ tục đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất toàn bộ phần đất, tồng diện tích là 3.690m2. Năm 2007 ông út cho ông Hùng mượn phần dất diện tích 1.020m2 dể canh tác. Nay ông út chi đồng ý tách phần đất hương hỏa của cụ Sáu đế lại, đồng thời yêu cầu ông Hùng trả lại diện tích đất đã mượn.

Tai bản án dân sự sơ thẩm số 26/2010/DS-ST ngày 01/09/2010, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang đã xử:

- Công nhận phần đất 899m2 trong đó có 150m2 đất thô cư là thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Hùng, (có lược đồ kèm theo, phần đất ký hiệu số 4).

- Kiến nghị ủy ban nhân dân huyện Châu Thành tách phần đất nêu trên từ giấy chủng nhận quyền sử dụng đất số 002033, cấp ngày 04/10/1995 cho ông Nguyễn Văn út sang tên ông Nguyễn Văn Hùng.

- Buộc ông Nguyễn Văn Hùng trả lại phần đất 1.020m2 cho ông Nguyễn Vãn Út (ký hiệu so 2 trên lược đồ). Ỏng út được sở hữu toàn bộ tài sán trên phân đát này.

- Buộc ông Nguyễn Văn Út trả lại cho ông Nguyên Vãn Hùng giá trị tài sản trên đất là 67.122.000 đồng.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thâm còn tuyên vê án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 13/09/2010 nguyên đơn ông Nguyễn Văn Hùng kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẳm số 192/2010/DS-PT ngày 29/12/2010, Tòa án nhân dân tính Hậu Giang đã xử:

- Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyên Văn Hùng. Sửa bản án sơ thẩm.

- Công nhận phần đất 899m2 (sổ 4) và phần đất 1020m2 (sổ 2) tại thủa đất sổ 608 trong giấy chúng nhận quyền sử dụng đất số 002033/QSDĐ cấp ngày 04/10/1995 của ông Nguyễn Văn út thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Văn Hùng.

- Ông Nguyễn Vãn Hùng được quan lý, sư dụng phần đất 899m2 và 1.020 m(ký hiệu 2,4 trên lược đồ).

Ngày 09/10/2011 ông Nguyễn Văn út có đơn dề nghị xem xét vụ án theo trình tự giám đôc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị sổ: 517/2013/KN-DS ngày 11/11/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thâm sô 192/2010/DS- PT ngày 29/12/2010 cúa Tòa án nhân dân tinh Hậu Giang theo thủ tục giám dốc thẩm, đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử hủv bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số 26/2010/DS-ST ngày 01/09/2010 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, giao hồ sơ vụ án cho Tòa ánnhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thâm lại theo quy định của * pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiếm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Đối với phần đất diện tích 1.800m2 (đánh số vị trí 1, 2 trên lược đồ ngày 20/05/2010):

Trong “Tờ phân chia di sản” lập ngày 22/04/1992 thể hiện cụ Nguyền Văn Sáu đã chia phần đất này cho ông Nguyền Văn Đức. Sau khi cụ Sáu chết ông Đức đã nhận phần đất này, các anh chị em khác trong gia đình không có tranh chấp hay phản đối nên phần đất 1.800m2 (đánh số vị trí 1, 2 trên lược đồ) là thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Đức. Tại bản tự khai ngày 16/04/2010 ông Nguyễn Văn Đức xác nhận đã nhận phần đất trên và sau đó đã bán cho ông Nguyễn Văn út với giá 5 chỉ vàng 24K. Tại phiên tòa sơ thấm, phiên tòa phúc thấm nguyên dơn ông Nguyễn Văn Hùng xác nhận có biết việc mua bán dất giữa ông Nguyền Văn út với ông Nguyễn Văn Đức. Như vậy phần đất 1.800m2 (đánh số vị trí 1, 2 trên lược đồ) là thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn út chứ không phải là di sản thừa kế do cụ Nguyễn Văn Sáu chết để lại như nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm.

Đối với phần đất điệp tích 1.800m2 (đánh số vị trí 3, 4 trên lứợc đồ ngày 20/05/2010), trên đất có một căn nhà cúa cụ Nguyễn Văn Sáu:

Đây là phân đât các bên dang tranh chấp, có nguồn gốc là di sản của cụ Nguyễn Văn Sáu chết đế lại. Theo ý chí của cụ Sáu là đế thờ phượng, các con tự thỏa thuận ai đứng ra trông coi, không được sang bán. Sau khi cụ Sáu chết thì các con của cụ đều căn cứ theo di chúc để nhận tài sản và đều đồng ý thực hiện theo di chúc của cụ là để phần đất 1.800m2 (đánh số vị trí 3, 4 trên lược đồ ngày 20/05/2010) làm nơi thờ phượng, không sang bán. Vì vậy đây là tài sản chung của các đồng thừa kế. Nay một trong các đồng thừa kể là ông Nguyễn Văn Hùng khới kiện tranh chấp. Lẽ ra Tòa án cần xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp chia tài sản chung” và tiến hành đưa tất cả những người con của cụ Nguyễn Văn Sáu tham gia vụ án. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại xác định quan hệ “Tranh chấp quyền sử dụng đất” là không đúng. Đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành chia đôi diện tích 1.800 m2, giao phần đất số (3) cho ông Nguyễn Văn út, phần đất số (4) cho ông Nguyễn Văn Hùng là chưa hợp lý vì đây là tài sản chung của các đồng thừa kế của cụ Nguyễn Văn Sáu, muốn phân chia phải có văn bản thỏa thuận đồng ý của tất cả các đồng thừa kế.

Tòa án cấp phúc thẩm lại xác định di sản cụ Nguyễn Văn Sáu để lại là toàn bộ phần đất diện tích 3.600m2, không thừa nhận việc mua bán đất giữa ông Nguyễn Văn út và ông Nguyễn Văn Đức, từ dó tiến hành chia cho ông Nguyễn Văn Hùng và ông Nguyễn Văn út mỗi người được Vi (mỗi người nhận 1.800m2) cũng không đúng vì phần đất 1.800m2 (đánh số vị trí 1, 2) là cúa ông Nguyễn Văn Út nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Văn Đức chứ không phải là di sản của cụ Nguyễn Văn Sáu chết để lại.

Bởi các lẽ trên, xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 192/2010/DS-PT ngày 29/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang và bản án dân sự sơ thẩm số 26/2010/DS-ST ngày 01/09/2010 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Hùng với bị đơn là ông Nguyễn Văn út.

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm 97/2014/DS-GĐT ngày 05/03/2014 về vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án