QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 09/2009/KDTM-GĐT NGÀY 03-9 2009 VỂ VỤ ÁN TRANH CHẤP GIỮA THÀNH VIÊN CÔNG TY VỚI HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

HỘI ĐỔNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 03 tháng 9 năm 2009, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, đã mở giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp giữa thành viên Công ty với Hội đồng quản trị Công ty giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Các cổ đông Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư, gồm: ông Trần Đình Thung, ông Đinh Văn An, bà Vũ Thị Bình, bà Phạm Thị Loan và bà Hoàng Thị Vân; đều trú tại đội 7, xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; do ông Trần Trọng Bình đại diện theo Giấy ủy quyền đề ngày 12-9-2008 của các nguyên đơn;

Bị đơn: Hội đồng quản trị Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư; có trụ sở tại xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, gồm: ông Phạm Hùng Can- Chủ tịch Hội đồng quản trị; ông Dương Quốc Tuấn-Uỷ viên Hội đồng quản trị,Giám đốc Công ty; ông Lã Phú Minh-Uỷviên Hội đồng quản trị, Phó Giám đốc Công ty.

NHẬN THẤY:

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20-5-2008 của các nguyên đơn, lòi khai của đương sự và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thì thấy:

Thực hiện chủ trương cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước, ngày 29-11-2001 uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình có Quyết định số” 2478/QĐ-UB giao Công ty nước giải khát Hoa Lư cho tập thể ngưòi lao động. Ngày 12-5-2002, Uỷban nhân dân tỉnh Ninh Bình bàn giao Công ty cho tập thể ngưòi lao động, gồm 67 ngưòi. Ngày 25-10-2002, Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu.

Trong quá trình hoạt động kinh doanh, Công ty cổ phần nướcgiải khát Hoa Lư lâm vào tình trạng phá sản và theo yêu cầu của Uỷban nhân dân tỉnh Ninh Bình thì Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư đã có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình. Ngày 23-6-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình ra Quyết định mở thủ tục phá sản.

Ngày 16-7-2006, Công ty cổ phần nướcgiải khát Hoa Lư tiến hành Đại hội đồng cổ đông bất thường dưới sự chủ tọa của ông Lã Phú Minh- Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty; làm Thư ký Đại hội gồm có anh Bùi Hoàng Anh và chị Phạm Thị Nhung. Tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, các cổ đông đã đề nghị Công ty rút lại đơn xin phá sản doanh nghiệp, bầu Hội đồng quản trị mới (khóa IV) gồm có các ông Phạm Hùng Can, Dương Quốc Tuấn và Lã Phú Minh. Tại phần bầu Hội đồng quản trị khóa mới, có 4 ý kiến đề nghị những ứng cử viên vào Hội đồng quản trị khóa mới phải nộp 500 triệu đồng vào quỹ Công ty.

Sau khi cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thưòng kết thúc, vào cùng ngày 16-7-2006, Hội đồng quản trị khóa mới (khóa IV), gồm các ông Phạm Hùng Can, Dương Quốc Tuấn và Lã Phú Minh đã họp và thông nhất là Hội đồng quản trị khóa IV phải góp tăng vốn điều lệ của Công ty thêm 500 triệu đồng.

Ngày 18-7-2006, Công ty có Tờ trình gửi Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xin rút lại đơn xin phá sản. Ngày 24-7-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình có Quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản đối với Công ty. Đồng thòi Công ty đã làm thủ tục bổ sung, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh. Ngày 24-7-2006, Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Ninh Bình cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (đăng ký thay đổi lần 3) cho Công ty với số vốn điều lệ là 876.175.040 đồng (vốn điều lệ cũ là 376.175.040 đồng). Thực tế thì ngày 31-7-2006, ông Dương Quốc Tuấn mới nộp 350 triệu đồng; ngày 31-12-2006, ông Phạm Hùng Can mới nộp 50 triệu đồng; tổng cộng hai người mới nộp 400 triệu đồng.

Đại diện nguyên đơn trình bày: Ngày 16-7-2006, Đại hội đồng cổ đông bất thưòng họp không có nội dung tăng vốn điều lệ của Công ty. Sau đó, Hội đồng quản trị ghi thêm nội dung tăng vốn điều lệ từ 376.175.040 đồng lên 876.175.040 đồng bằng cách phát hành thêm cổ phần bán cho Hội đồng quản trị rồi đề nghị Sở kế hoạch và đầu tư cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới với vốn điều lệ là 876.175.040 đồng. Đến ngày 24-4-2008, khi họp Đại hội đồng cổ đông thì các nguyên đơn mới biết được việc làm nay của Hội đồng quản trị. Chính ông Phạm Hùng Can - Chủ tịch Hội đồng quản trị và ông Lã Phú Minh - uỷ viên Hội đồng quản trị, Phó Giám đốc Công ty cũng thừa nhận Hội đồng quản trị đã ghi thêm vào sổ nghị quyết việc tăng vốn điều lệ thêm 500 triệu đồng. Việc làm của Hội đồng quản trị là vi phạm Luật doanh nghiệp và Điều lệ Công ty. Nay yêu cầu Tòa án hủy bỏ phần nội dung về việc tăng vốn điều lệ tại Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông ngày 16-7-2006 và kiến nghị Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Ninh Bình cấp lại Giấv chứng nhận đăng ký kinh doanh theo vốn điều lệ ban đầu là 376.175.040 đồng.

Đại diện bị đơn trình bày: Các ông Phạm Hùng Can-Chủ tịch Hội đồng quản trị, Lã Phú Minh- Uỷ viên Hội đồng quản trị, Phó Giám đốc đều thừa nhận lòi trình bày của nguyên đơn là đúng và đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. Riêng ông Dương Quốc Tuấn- Uỷ viên Hội đồng quản trị, Giám đốc thì cho rằng Đại hội đồng cổ đông bất thường họp ngày 16-7-2006 có bàn và thống nhất nội dung tăng vốn điều lệ thêm 500 triệu đồng, không có việc ghi thêm. Việc ông Phạm Hùng Can và Lã Phú Minh đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn là vì vấn đề kinh tế, nếu tăng vốn điều lệ thì quyền và lợi ích của ông rất lớn vì ông đã góp 350 triệu đồng. Đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Tại bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2008/KDTM-ST ngày 15 -7-2008, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình áp dụng Điều 29; 34; 245 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 79; 108 Luật doanh nghiệp năm 2005, xử:

-   Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn hủy bỏ phần ghi thêm vào biên bản đại hội cổ đông ngày 16-7-2006 của Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư các dòng chữ sau “Hội đồng quản trị mới đóng góp tăng vốn điều lệ 500.000.000 đồng. Hội nghị nhất trí 100%”.

-   Kiến nghị Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Ninh Bình cấp lại giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư như số vốn điều lệ ban đầu là: 376.175.040 đồng. Công ty cổ phần nướcgiải khát Hoa Lư có trách nhiệm làm các thủ tục để đăng ký kinh doanh lại theo quy định của Luật doanh nghiệp và quyết định của bản án này.

Ngày 28-7-2008, ông Dương Quốc Tuấn có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số195/2008/KDTM-PT ngày 20-10-2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ngày 26-11-2008, ông Dương Quốc Tuấn có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 02/KN-VKSTC-V12 ngày 15-01-2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số195/2008/KDTM-PT ngày 20-10-2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2008/KDTM-ST ngày 15-7-2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số195/2008/KDTM-PT ngày 20-10-2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối caogiữ nguyên quan điểm kháng nghị.                                                                                                                                            J||

XÉT THẤY:

Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư họp bất thưòng ngày 16-7-2006 có hai người làm thư ký. Thư ký 1 là anh Bùi Hoàng Anh (Bùi Văn Anh), Thư ký 2 là chị Phạm Thị Nhung, mỗi người ghi biên bản cuộc họp vào một quyển sổ khác nhau.

Biên bản do anh Bùi Hoàng Anh (Bùi Văn Anh) ghi được ghi vào quyên thưòng ghi Biên bản về các cuộc họp của Công ty, còn Biên bản do chị Thị Nhung ghi được ghi vào cuốn sổ riêng. Hai biên bản này có điểm giống

Mặt khác, theo quy định tại Điều 96 Luật doanh nghiệp và khoản 4 Điều 10 Điều lệ của Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư (Bản Điều lệ này được thu thập sau khi có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao), thì việc tăng vốn điều lệ của Công ty phải do Đại hội đồng cổ đông quyết định. Hội đồng quản trị không có quyền quyết định tăng vốn điều lệ của Công ty.

Còn các tài liệu, chứng cứ như Bản trích Nghị quyết của cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 16-7-2006 do ông Lã Phú Minh-Chủ tọa và chị Phạm Thị Nhung-Thư ký 2 của cuộc họp đã lập và ký có nội dung “Đại hội nhất trí thông qua 100%: tăng thêm vốn Điều lệ Công ty 500.000.000 đồng”; Danh sách cổ đông do Công ty lập ngày 20-7-2006 gồm 66 cổ đông ghi rõ số cổ phần của từng ngưòi với mệnh giá 1 cổ phần là 100.000 đồng gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình để xin thay đổi Giấy đăng ký kinh doanh; Tờ trình ngày 18-7- 2006 của Công ty gửi Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xin rút lại đơn phá sản có nội dung: “Ngày 16-7-2006, Công ty chúng tôi đã tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông bất thường lấy ý kiến của cổ đông thông qua Nghị quyết họp Hội đồng quản trị khóa III ngày 13-7-2006. Đại hội đồng cổ đông nhất trí thông qua Nghị quyết: Huy động thêm 500.000.000 đồng tiền vốn từ cổ đông để duy trì sản xuất...” đều là những tài liệu do Hội đồng quản trị Công ty lập sau khi Đại hội đồng cổ đông họp bất thường ngày 16-7-2006 với mục đích để được cấp lại Giấy đăng ký kinh doanh và giữ lại Công ty nên không thể coi là căn cứ để khẳng định Đại hội đồng cổ đông họp bất thưòng ngày 16-7-2006 có bàn và thông qua nghị quyết về việc tăng vốn Điều lệ của Công ty thêm 500.000.000 đồng.

Biên bản họp Hội đồng quản trị khóa III ngày 13-7-2006 có nội dung: ‘Toàn hội nghị nhất trí 100%, Hội đồng quản trị mới phải huy động vào vốn Điều lệ 500.000.000 đồng sau 10 ngày (hết 31-7-2006)” diễn ra trước Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 16-7-2006; Đơn đề nghị ngày 11-8-2006 do ông Nguyễn Xuân Thanh-Chủ tịch Công đoàn Công ty cùng với 9 cổ đông khác ký có nội dung: “Để phục vụ sản xuất, bầu ra Hội đồng quản trị mới với điều kiện Hội đồng quản trị bỏ số tiền 500.000.000 đồng trả nợ Bảo hiểm xã hội...trả nợ ngân hàng và các con nợ...” cũng như Công văn số189/CV ngày 02-5-2008 do ông Phạm Hùng Can-Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty ký có nội dung: “Ngày 16-7-2006 Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư đã tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông bất thường, Hội đồng quản trị đã nhất trí thông qua tăng vốn Điều lệ của Công ty thêm 500.000.000 đồng...” đều không thể hiện là Đại hội; đồng cổ đông họp bất thường ngày 16-7-2006 có bàn và thông qua nghị quyết về việc tăng vốn Điều lệ của Công ty thêm 500.000.000 đồng.

Vì vậy, có căn cứ khẳng định việc Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xác định Hội đồng quản trị ghi thêm nội dung: “Hội đồng quản trị mới đóng góp tăng vốn điều lệ 500.000.000 đồng. Hội nghị nhất trí 100%” vào Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 16-7-2006 của Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư và hủy phần ghi thêm này là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm có sai lầm trong việc nhận định dẫn đến có việc hiểu lầm như là căn cứ vào Bản xác nhận của 38 cổ đông đề ngày 20-5-2008 là một trong những chứng cứ để xác định Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 16-7-2006 không bàn gì về việc tăng vốn điều lệ của Công ty trong khi bản xác nhận này có hai cổ đông đã chết trước ngày diễn ra cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 16-7-2006 (Nguyễn Việt Trì chết ngày 30-6-2006 và Nguyễn Viết Xuân chết ngày 09-5-2003) và ông Phạm Hùng Can- Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty thừa nhận ký hộ 4-5 người trong Bản xác nhận này; có hai cổ đông là Lã Chỉ Bằng Tuyên và An Viết Bình có bản tường trình thừa nhận trước đây có xác nhận tại cuộc họp bất thưòng ngày 16-7-2006 Đại hội đồng cổ đông không thông qua nội dung tăng vốn điều lệ, nhưng nay lại xác nhận là Đại hội đồng cổ đông có thông qua nội dung tăng vốn điều lệ. Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm phải rút kinh nghiệm nghiêm khắc về vấn đề này.

Tuy nhiên, sai lầm này không nghiêm trọng, không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án và sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 04-12-2008, Công ty cổ phần nước giải khát Hoa Lư đã tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông bất thường và ra Nghị quyết bãi miễn chức vụ thành viên hội đồng quản trị-Giám đốc Công ty của ông Dương Quốc Tuấn; bổ nhiệm ông Hoàng Đình Thưòng làm thành viên Hội đồng quản trị-Giám đốc Công ty; giảm vốn Điều lệ của Công ty từ 876.175.040 đồng xuống còn 376.175.040 đồng; quyết định về thanh toán trả lại cho ông Dương Quốc Tuấn và ông Phạm Hùng Can số tiền đã góp vào Công ty; và ngày 17-12-2008; Công ty đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Đăng ký thay đổi lần 5), thay đổi vốn điều lệ từ 876.175.040 đồng xuống còn 376.175.040 đồng (Vốn điều lệ ban đầu) và người đại diện theo pháp luật là Giám đốc-ông Dương Quốc Tuấn được thay bằng ông Hoàng Đình Thưòng. Kèm theo là Danh sách cổ đông của Công ty gồm có 44 cổ đông và liện nay Công ty đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, bắt đầu có sản phẩm tiêu thụ; do đó, việc hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm để giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại như kháng nghị đặt ra là không  cần thiết.

Về số tiền 400 triệu đồng của ông Dương Quốc Tuấn và ông Phạm Hùng đã nộp vào Công ty thì Công ty đã có chủ trương trả lại. Thực tế, Công ty đã nhiều lần mời ông Dương Quốc Tuấn đến nhận tiền nhưng ông Dương Quốc Tuấn không đến nhận, còn ông Phạm Hùng Can tự nguyện chỉ lấy lại số tiền gốc nhưng nay ông Phạm Hùng Can chưa lấy. Vấn đề này nếu sau này có tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

Ngoài ra, trong vụ án này quan hệ tranh chấp phải xác định là tranh chấp giữa các thành viên của Công ty với nhau mới là chính xác nhưng Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định đây là tranh chấp giữa các thành viên của Công ty vói Hội đồng quản trị của Công ty là không chính xác. Tuy nhiên, việc nhầm lẫn này không làm ảnh hưởng đến bản chất của việc giải quyết vụ án.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 1 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH:

Không chấp nhận Kháng nghị số 02/KN-VKSTC-V12 ngày 15-01-2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 195/2008/KDTM-PT ngày 20-10-2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.

Lý do không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC

Sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không nghiêm trọng, không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án.

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 09/2009/KDTM-GĐT NGÀY 03-9 2009 VỂ VỤ ÁN TRANH CHẤP GIỮA THÀNH VIÊN CÔNG TY VỚI HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

Số hiệu 09/2009/KDTM-GĐT Ngày xét xử 03/09/2009
Bình luận án

Tiếng Việt

English