QUYẾT ĐỊNH

GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 12/2009/KDTM-GĐT, NGÀY 14/12/2009 CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỢP TÁC ĐẦU TƯ”

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngày 14/12/2009 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm để xét xử vụ án kinh doanh thương mại "Tranh chấp về hợp đồng hợp tác đầu tư" giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An; có trụ sở tại km 1934, quốc lộ 1A, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An; do ông Nguyễn Văn Liên – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty đại diện;

Đồng bị đơn:

Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi; có trụ sở tại số 439 Trần Xuân Soạn, phường Tân Kiểng, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh; do bà Huỳnh Thị Kim Anh đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 05/7/2007 của Giám đốc Công ty;

- Công ty cổ phần tập đoàn Quốc tế Năm Sao; có trụ sở tại 385 Trần Xuân Soạn, phường Tân Kiểng, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh; do ông Trần Mạnh Tưởng đại diện theo Giấy ủy quyền số 17-08/QĐUQ ngày 25/6/2008 của Tổng Giám đốc Công ty;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An;

- Công ty cổ phần sản xuất, dịch vụ, thương mại, xây dựng Thành Tài; có trụ sở tại 217 Đồng Đen, phường 11, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY:

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/4/2007 của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An (sau đây gọi tắt là Công ty LICO) đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi (sau đây gọi tắt là Công ty Tân Lợi Lợi) và đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 22/10/2007 của Công ty LICO đối với Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao (sau đây gọi tắt là Công ty Năm Sao), cùng các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình thì:

1. Ngày 31/12/2003, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An có Công văn số 5667/CV-UB giao cho Công ty cơ khí xây dựng Long An (nay là Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An) làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp tại Cụm công nghiệp Long Định – Long Cang mở rộng tại xã Long Định và xã Long Cang huyện Cần Đước với tổng diện tích là 50 ha; sau khi đầu tư xây dựng hạ tầng xong, Công ty LICO giao lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An cho các doanh nghiệp thuê đất.

2. Ngày 22/4/2005, Công ty LICO ký Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HTĐT-05 với Công ty TNHH dịch vụ-thương mại-vận tải Tân Lợi Lợi (nay là Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi) với nội dung (tóm tắt):

Hai bên hợp tác đầu tư xây dựng hạ tầng Cụm công nghiệp 50 ha do Công ty LICO làm Chủ đầu tư; mỗi bên góp vốn 50% của giá trị hợp đồng; giá trị hợp đồng tạm tính là 77 tỷ đồng, bao gồm: tổng giá trị bồi hoàn thực tế (căn cứ vào các quyết định của UBND huyện Cần Đước về việc phê duyệt phương án bồi hoàn thiệt hại thu hồi đất xây dựng Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang…”; tổng giá trị san lấp và các chi phí khác (căn cứ vào quyết toán thực tế, báo cáo và các chứng từ hợp lệ) (Điều 1, 2, 4 Hợp đồng);

- Về tiền bồi hoàn: Mỗi bên gửi 4,85 tỷ đồng vào Kho bạc Nhà nước huyện Cần Đước để chi trả tiền bồi hoàn đợt 1. Khi có quyết định chi trả tiền bồi hoàn cho các đợt tiếp theo thì các bên tiếp tục gửi tiền theo tỷ lệ góp vốn vào Kho bạc Nhà nước. Sau khi chi trả xong tiền bồi hoàn thì tiếp tục chi trả tiền san lấp mặt bằng và các chi phí phát sinh khác… cho việc đầu tư dự án… (Điều 6); trong quá trình bồi hoàn, nếu bên nào không góp đủ vốn theo tỷ lệ 50/50 thì bên còn lại được ưu tiên tăng vốn góp của mình và được hưởng lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng…;

- Công ty LICO trực tiếp điều hành dự án…; sử dụng nguồn tiền góp vốn…để thanh toán các chi phí hợp lý phục vụ dự án; chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp; Công ty LICO có trách nhiệm bảo đảm số tiền góp vốn của mình và chỉ sử dụng cho mục tiêu đầu tư…thực hiện dự án, cung cấp kịp thời cho Công ty Tân Lợi Lợi những thông tin có liên quan việc sử dụng vốn của dự án; bảo đảm và hoàn tất các thủ tục pháp lý để Công ty Tân Lợi Lợi có được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 25 ha hoặc đối với diện tích đất tương ứng với tỷ lệ mà Công ty Tân Lợi Lợi đã góp vốn của Dự án ngay khi Công ty LICO nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp Công ty Tân Lợi Lợi không được phép nhận chuyển nhượng phần diện tích đất đã bồi hoàn trong dự án đã đầu tư, thì Công ty LICO phải hoàn trả lại cho Công ty Tân Lợi Lợi toàn bộ số tiền mà Công ty Tân Lợi Lợi đã đầu tư, cùng với giá trị lợi nhuận tăng thêm mà đúng ra Công ty Tân Lợi Lợi được hưởng đối với phần đất đã được đầu tư (Điều 8 Hợp đồng);

- Công ty Tân Lợi Lợi có nghĩa vụ: góp đủ vốn theo đúng tỷ lệ quy định trong hợp đồng và tiến độ thực hiện dự án; cùng phân chia thuận lợi và khó khăn trong khi thực hiện hợp đồng (Điều 8 Hợp đồng);

- Nguyên tắc xác định lợi nhuận: Sau khi dự án 50 ha đã đầu tư xong và tất cả các khoản chi phí đã được hạch toán thì lợi nhuận được tính như sau: Lợi nhuận bằng (=) tổng doanh thu trừ (-) tất cả chi phí thực hiện dự án 50 ha (Điều 9 Hợp đồng);

Nguyên tắc phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ 1/1. Hình thức chia là mỗi bên nhận 50% diện tích đất hoặc theo tỷ lệ góp vốn ban đầu trên diện tích đất của dự án đã đầu tư (Điều 9 Hợp đồng);

Việc thanh lý hợp đồng theo các trường hợp sau: Hai bên gặp bất khả kháng (thiên tai, chiến tranh, thay đổi chính sách của Nhà nước đối với dự án); một trong hai bên xin huỷ hợp đồng và được bên kia đồng ý; một trong hai bên vi phạm nghiêm trọng các điều khoản của hợp đồng, gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của bên kia… (Điều 10 Hợp đồng);

- Để hoàn thành nhiệm vụ đầu tư Cụm công nghiệp, hai bên sẽ thành lập 01 Ban quản lý dự án gồm 01 Trưởng ban (do Công ty LICO đề cử) và các thành viên Công ty Tân Lợi Lợi được cử người tham gia vào Ban quản lý dự án theo tỷ lệ góp vốn (Điều 5 Hợp đồng);

Thực hiện hợp đồng, Công ty Tân Lợi Lợi đã góp được 16,95 tỷ đồng, trong đó lần đầu là ngày 13/5/2005 góp 4,7 tỷ đồng và lần góp cuối cùng là ngày 24/01/2006 góp 2,25 tỷ đồng. So với giá trị hợp đồng, tỷ lệ góp vốn của Công ty Tân Lợi Lợi là 22% (16,95 tỷ đồng/77 tỷ đồng). Công ty LICO có nhiều văn bản yêu cầu Công ty Tân Lợi Lợi tiếp tục góp vốn nhưng Công ty Tân Lợi Lợi không góp và có công văn không hợp tác với Công ty LICO. Do đó, Công ty LICO một mình tiếp tục thực hiện hợp đồng này. Ngày 09/02/2007, Uỷ ban nhân dân huyện Cần Đước xác nhận Công ty LICO đã bồi thường giải phóng mặt bằng xong và ngày 09/3/2007 Công ty LICO đã cùng tư vấn giám sát, tư vấn thiết kế lập và ký Biên bản nghiệm thu hoàn thành phần san lấp 50 ha xong. Công ty LICO đã thực chi cho Dự án là 61.339.774.566 đồng. Ngoài ra, còn có các khoản dự kiến chi phí khác gồm: Chi tái định cư 11.350.000.000 đồng; chi thưởng cho 34 hộ di dời sớm 112.370.000 đồng, chi tiền hỗ trợ tạm cư của năm 2008 là166.200.000 đồng.

Vì vậy, Công ty LICO có đơn khởi kiện Công ty Tân Lợi Lợi với yêu cầu huỷ Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HTĐT - 05 ngày 22/4/2005, vì Công ty Tân Lợi Lợi đã vi phạm hợp đồng do không góp tiếp vốn để thực hiện dự án; Công ty LICO đồng ý hoàn trả lại cho Công ty Tân Lợi Lợi 16,95 tỷ đồng đã góp. 3- Ngày 07/02/2006, Công ty LICO ký Hợp đồng hợp tác đầu tư số 015 K06HT với Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao (nay là Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao) với những nội dung chính (tóm tắt) sau đây:

- Hai bên hợp tác đầu tư “Dự án đền bù, giải toả và san lấp mặt bằng Cụm công nghiệp Long Định, Long Cang huyện Cần Đước” với diện tích khoảng 25 ha trong tổng diện tích 50 ha do Công ty cơ khí xây dựng Long An làm chủ đầu tư; giá trị của hợp đồng tạm tính là 38,5 tỷ đồng (tương đương 50% tổng giá trị dự toán của dự án là 77 tỷ đồng). Giá trị hợp đồng này bao gồm: tiền bồi hoàn thực tế, giá trị san lấp và các chi phí khác (căn cứ vào quyết toán thực tế, báo cáo và các chứng từ hợp lệ);

- Tỷ lệ góp vốn: Mỗi bên góp 50% của giá trị hợp đồng (tỷ lệ này có thể thay đổi);

- Công ty LICO có nghĩa vụ bảo đảm số tiền góp vốn của Công ty Năm Sao chỉ sử dụng cho mục tiêu đầu tư…; phân chia lợi nhuận cho Công ty Năm Sao sau khi kết thúc dự án;

- Sau khi được sự thống nhất của hai bên bằng văn bản, Công ty LICO được quyền đại diện cho hai bên ký tất cả các văn bản liên quan đến việc triển khai thực hiện dự án…, chuyển giao phần mặt bằng trong nội dung hợp tác cho đơn vị khác. Nếu Công ty LICO tự ý thực hiện các việc trên khi chưa có sự đồng ý của Công ty Năm Sao thì Công ty LICO sẽ chịu trách nhiệm trước Công ty Năm Sao và trước pháp luật. Các công việc và chi phí do Công ty LICO thực hiện trước khi ký hợp đồng hợp tác vẫn có giá trị và được Công ty Năm Sao thừa nhận.

- Công ty Năm Sao có nghĩa vụ góp vốn đủ theo nội dung hợp đồng và tiến độ thực hiện dự án; được cử người tham gia Ban quản lý dự án; được chia lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn…

- Việc chia lợi nhuận được thực hiện khi kết thúc dự án. Nguyên tắc xác định lợi nhuận: Tổng doanh thu trừ đi tất cả chi phí thực hiện tính cho 50% giá trị dự án (Các chi phí để thực hiện dự án sẽ được lập thành một bản báo cáo để hai bên xem xét); Nguyên tắc phân chia kết quả hợp tác: Căn cứ vào bảng báo cáo tất cả chi phí đầu tư dự án, hai bên sẽ xác định tổng nguồn vốn góp của mỗi bên. Trong trường hợp, nếu Công ty Năm Sao đề nghị được chia lợi nhuận bằng sản phẩm của dự án thì Công ty LICO có trách nhiệm liên hệ với các ngành chức năng của tỉnh Long An để chuyển giao quyền sử dụng đất cho Công ty Năm Sao tương ứng với lợi nhuận mà Công ty Năm Sao được chia; Khi xác định được phần vốn góp của mỗi bên và đã thực hiện các nghĩa vụ Nhà nước quy định, hai bên sẽ phân chia theo tỷ lệ góp vốn…;

- Thanh lý hợp đồng khi:… hai bên tham gia gặp các trường hợp bất khả kháng như thua lỗ không còn khả năng thực hiện tiếp mục tiêu dự án hay gặp thiên tai, chiến tranh, Nhà nước thay đổi chính sách đối với dự án; Dự án bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi chủ trương đầu tư; Một trong các bên xin huỷ hợp đồng hoặc vi phạm nghiêm trọng các điều khoản trong hợp đồng này dẫn đến vi phạm nghiêm trọng lợi ích của các bên…

- Hai bên sẽ thành lập 01 Ban quản lý dự án với thành phần theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên để theo dõi, quản lý dự án (Trưởng ban Ban quản lý dự án là người của Công ty LICO);

Thực hiện hợp đồng, ngày 09/02/2006 Công ty Năm Sao đã góp 7,55 tỷ đồng; sau đó ngừng việc góp vốn, mặc dù Công ty LICO đã có nhiều văn bản yêu cầu tiếp tục góp vốn. Còn Công ty Năm Sao cũng có nhiều văn bản thể hiện việc không tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 015K06HT ngày 07/02/2006. Công ty LICO cho rằng Công ty Năm Sao đã vi phạm nghiêm trọng hợp đồng nên ngày 22/10/2007 đã có đơn khởi kiện với yêu cầu huỷ hợp đồng hợp tác đầu tư nêu trên và chấp nhận trả lại cho Công ty Năm Sao 7,55 tỷ đồng đã góp.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2008/KDTM-ST ngày 04/9/2008, Toà án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:

“- Chấp nhận một phần yêu cầu của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An về việc xin huỷ Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HTĐT05 ngày 22/4/2005 và số 015/K06HT ngày 07/02/2006 giữa Công ty cơ khí Long An và Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ vận tải Tân Lợi Lợi và với Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao.

Huỷ các nội dung thoả thuận vô hiệu giữa Công ty cơ khí Long An với Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ vận tải Tân Lợi Lợi và với Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao về việc chia lợi nhuận bằng diện tích đất cụ thể của dự án 50 ha, cụm công nghiệp Long Định, Long Cang, huyện Cần Đước, tỉnh Long An ghi tại Điều 8 của Hợp đồng số 59/HTĐT05 ngày 22/4/2005 và Điều 7 của Hợp đồng số 015/K06HT ngày 07/02/2006, vì trái với nội dung Công văn số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An khi giao đất cho Công ty cơ khí Long An làm chủ đầu tư dự án và trái với Luật Đất đai năm 2003 và Bộ luật dân sự năm 2005.

Xác định Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An vẫn là chủ đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp cụm Long Định-Long Cang, huyện Cần Đước, tỉnh Long An mở rộng theo Công văn số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An, buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao khôi phục lại tình trạng ban đầu và giao trả mặt bằng cho chủ đầu tư, trừ phần diện tích dự án Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An đã giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Tài theo Quyết định số 1173/QĐ-UBND ngày 27/4/2007 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An.

Buộc Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An phải hoàn trả phần vốn góp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao và khoản lợi nhuận trước thuế được hưởng theo thoả thuận ghi trong hợp đồng, cụ thể:

+ Trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi số tiền 48.736.508.121 đồng;

+ Trả cho Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao số tiền 21.708.002.297 đồng…”

Ngày 12/9/2008, Công ty Tân Lợi Lợi có đơn kháng cáo toàn bộ đối với bản án sơ thẩm.

Ngày 15/9/2008, Công ty Năm Sao có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Ngày 15/9/2008, Công ty LICO có đơn kháng cáo với nội dung không đồng ý với bản án sơ thẩm về việc chia tỷ lệ lợi nhuận cho Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao.

Ngày 26/9/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An có Quyết định số 103/QĐ.KNPT.P5, kháng nghị bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm theo hướng xác định các bên tham gia ký kết các hợp đồng hợp tác đầu tư đều có lỗi, dẫn đến các hợp đồng này bị vô hiệu cho nên phải cùng chịu thiệt hại khi khôi phục lại tình trạng ban đầu, đồng thời bản án sơ thẩm đã có sự mâu thuẫn giữa phần nhận định và quyết định.

Tại phiên toà phúc thẩm ngày 28/11/2008, đại diện Viện phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã rút toàn bộ kháng nghị số 103/ QĐ.KNPT.P5 ngày 26/9/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định (tóm tắt):

- Giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm huỷ phần thoả thuận vô hiệu về việc chia lợi nhuận bằng đất theo tỷ lệ vốn góp tại Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HĐHTĐT-05 ngày 22/4/2005 giữa Công ty cơ khí Long An và Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ vận tải Tân Lợi Lợi, và tại Hợp đồng hợp tác đầu tư số 015/K06HT ngày 07/02/2006 giữa Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An với Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao.

- Giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm về chi phí định giá.

- Sửa các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm:

+ Công nhận các thoả thuận khác của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và của Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao tại Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HĐHTĐT-05 ngày 22/4/2005 và Hợp đồng hợp tác đầu tư số 015/K06HT ngày 07/02/2006.

+ Công nhận ba Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi, Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao cùng hợp tác đầu tư dự án cụm công nghiệp Long Định-Long Cang mở rộng với diện tích thực tế là 49,86750 ha.

+ Công nhận thoả thuận chia tách dự án theo tỷ lệ góp vốn theo tinh thần Công văn số 213 ngày 01/11/2006 của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An và Công văn số 5957 ngày 04/12/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An.

Cụ thể:

- Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An tiếp tục đầu tư theo tỷ lệ 24,012% dự án Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang… (Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An đã ký hợp đồng đền bù với Công ty cổ phần Thành Tài, được hưởng lợi nhuận từ Công ty Thành Tài).

- Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao tiếp tục đầu tư theo tỷ lệ 25,992% dự án Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang… Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao được quyền liên hệ với Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để làm thủ tục giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 theo vị trí đã phân chia trước khi khởi kiện ra Toà án.

Sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An ra quyết định giao đất hoặc thuê đất, Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao còn phải thanh toán cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An số tiền vốn góp là 7.827.322.151 đồng và tiền lãi là 1.906.735.676 đồng. Tổng cộng là 9.734.057.827 đồng.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi tiếp tục đầu tư theo tỷ lệ 49,996% dự án Cụm công nghiệp Long Định- Long Cang…

Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi được quyền liên hệ với Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để làm thủ tục giao đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 theo vị trí đã được phân chia trước khi khởi kiện ra Toà án.

Sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An ra quyết định giao đất hoặc thuê đất, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi còn phải thanh toán cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An số tiền vốn góp là 12.628.508.705 đồng và tiền lãi là 3.076.304.720 đồng. Tổng cộng là 15.704.813.425 đồng…

Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An có nhiều đơn đề nghị xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Quyết định số 23/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 20/7/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2008/KDTM-ST ngày 04/9/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Long An; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại từ trình tự sơ thẩm, bảo đảm đúng quy định của pháp luật với nhận định như sau:

Về tố tụng: Việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An, Công ty TNHH Thành Tài vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng quy định của pháp luật, bởi tranh chấp giữa các đương sự trong vụ kiện là tranh chấp phát sinh trong việc ký kết và thực hiện các hợp đồng: “Hợp tác đầu tư”. Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An và Công ty TNHH Thành Tài không có quyền lợi, nghĩa vụ gỡ liên quan đến việc thực hiện các hợp đồng: “Hợp tác đầu tư” giữa Công ty cổ phần cơ khí Long An với Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi, Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao. Tòa án cấp phúc thẩm đưa Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An, Công ty TNHH Thành Tài vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở trình tự phúc thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Việc Tòa án hai cấp xử hủy phần thỏa thuận vụ hiệu về việc chia tách Dự án bằng đất theo tỷ lệ vốn góp hợp đồng hợp tác đầu tư số 59 ngày 22/4/2005 giữa Công ty cơ khí xây dựng Long An với Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và tại hợp đồng số 015/K06HT ngày 7/02/2006, giữa Công ty cơ khí xây dựng Long An với Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao là đúng với quy định tại Điều 410, 411 Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Nghị quyết số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005 về việc hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự.

Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HTĐT ngày 22/5/2005 với Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và hợp đồng số 015/K06HT ngày 07/02/2006 với Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao do các Công ty này vi phạm hợp đồng, tự ý ngừng việc gúp vốn. Yêu cầu này của Công ty cổ phần cơ khí Long An là hợp pháp cần được chấp nhận, theo đó việc xác định lợi nhuận và phân chia kết quả hợp tác theo tỷ lệ vốn góp cho các bên phải trên cơ sở các thỏa thuận không bị vô hiệu tại hai hợp đồng này.

Tại Hợp đồng số 59/HTĐT và hợp đồng số 015/K06HT ngày 7/02/2006, hai bên thỏa thuận trong trường hợp bên B (Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi, Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao) không được phép nhận chuyển nhượng phần diện tích đất đó bồi hoàn trong dự án đầu tư thì bên A (Công ty cơ khí xây dựng Long An) phải hoàn trả cho bên B toàn bộ tiền mà bên B đó đầu tư cùng với giá trị lợi nhuận tăng thêm mà đáng ra bên B được hưởng đối với phần đất đó được đầu tư. Thỏa thuận này của các bên không vi phạm pháp luật nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An phải hoàn trả phần vốn góp và khoản lợi nhuận trước thuế cho Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao là đúng quy định của pháp luật.

Theo báo cáo của Công ty cơ khí Long An số 169/CV-CKXDLA ngày 30/7/2008 và Công văn số 179/CV-LICO ngày 01/9/2008 thì Công ty đó chi tổng số tiền để thực hiện dự án là 61.618.334.566 đồng. Sau khi xem xét các chứng từ do Công ty cơ khí Long An xuất trình, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận tổng số tiền chi thực tế, hợp lý, hợp lệ phục vụ cho dự án là 60.456.334.566 đồng. Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận số tiền chi phí hợp lý thực hiện dự án là 59.161.750 đồng.

Ngày 21/3/2008, Hội đồng định giá tỉnh Long An đó định giá, trị giá của 50 ha đất dự án (thực tế là 498,591 m2) với đơn giá 470.000 đồng/m2, bằng 234.338.000.000 đồng. Việc định giá của Hội đồng định giá tỉnh Long An cần phải được chấp nhận bởi diện tích đất trên đó được Công ty cổ phần cơ khí Long An đầu tư xây dựng hạ tầng xong. Do đó, cách xác định lợi nhuận và chia lợi nhuận cho các bên theo như Tòa án cấp sơ thẩm (cuối trang 15, nửa đầu trang 16 bản án sơ thẩm) là phù hợp với thỏa thuận không bị vô hiệu của các bên trong hợp đồng. Tuy nhiên, do Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm có sự chấp nhận khác về chi phí đầu tư thực tế vào dự án của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An nên cần phải xem xét, đánh giá lại tất cả các chứng từ do Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An xuất trình. Ngoài ra, theo Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An thì Công ty còn phải tiếp tục chi trả cho dự án là 12.018.000.000 đồng, bao gồm: chi phí tái định cư là 11.350.000.000 đồng, chi hỗ trợ tạm cư một năm là 166.200.000 đồng, chi thưởng di dời sớm theo quy định là 112.370.000 đồng, những chi phí này chưa được Tòa án cấp sơ thẩm làm rừ để chấp nhận hoặc không chấp nhận khi xác định lợi nhuận và chia lợi nhuận cho các bên.

Sau rất nhiều văn bản, quyết định chia tách dự án, giao đất, thu hồi đất, ngày 27/6/2008 Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An có Quyết định 1714/QĐ-UBND “Về việc hủy bỏ Công văn số 845/UBND-KT ngày 15/02/2007, Quyết định số 716/QĐ-UBND ngày 16/3/2007…; Quyết định số 2433/QĐ-UBND ngày 20/9/2007…của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An; Quyết định số 1353/QĐ-UBND ngày 21/5/2008 thu hồi Quyết định 1171/QĐ-UBND ngày 24/4/2007 về việc giao đất cho Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao và Quyết định số 1354 ngày 21/5/2008 thu hồi Quyết định số 1714/QĐ-UBND ngày 17/4/2007 về việc giao đất cho Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi”. Như vậy, đến thời điểm Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm, công văn (có thể coi như Quyết định) số 5667 ngày 31/12/2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An vẫn còn hiệu lực thi hành, do đó quan điểm của Tòa phúc thẩm cho rằng: “để đảm bảo quyền lợi của các bên thì phương án chia tách dự án theo tỷ lệ góp vốn là hợp lý” là không đúng với chủ trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An thể hiện tại Công văn số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003, Công văn số 1130/UBND-KT ngày 10/3/2008, Quyết định số 1714/QĐ-UBND ngày 27/6/2008.

Việc Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Công văn số 213 ngày 01/11/2006 của Công ty cơ khí Long An và Công văn số 5957 ngày 4/12/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để công nhận việc cả ba Công ty: Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An, Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi, Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao cùng hợp tác đầu tư Dự án cụm công nghiệp Long Định-Long Cang là thiếu tính pháp lý, không đúng với diễn biến của quá trình thực hiện hợp đồng giữa các bên. Bởi lẽ: tại Công văn số 213 ngày 01/11/2006 gửi Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Long An, Công ty cơ khí Long An đề xuất phương án chia tách dự án nhưng không được các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh Long An chấp nhận; Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng; và tại Văn bản số 1130/UBND-KT ngày 10/3/2008, gửi Tòa án nhân dân tỉnh Long An quan điểm của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An vẫn thể hiện: “Chủ trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An chỉ giao Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An đầu tư hạ tầng, sau khi đầu tư hạ tầng xong giao lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện việc giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai, Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ thang toán chi phí đó đầu tư và quyết định lợi nhuận dự án trên cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An “ (phù hợp với tinh thần Văn bản số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003).

Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm đó hủy phần chia lợi nhuận bằng đất theo tỷ lệ vốn góp trong hợp đồng hợp tác đầu tư giữa các bên, Tòa án cấp phúc thẩm cũng giữ nguyên phần quyết định này của Tòa án cấp sơ thẩm nhưng khi quyết định lại công nhận sự thỏa thuận chia tách dự án theo tỷ lệ vốn góp cho các bên đương sự là không đúng với các quy định tại Điều 410, 411 Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Nghị quyết số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005 về việc hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự.

Như vậy, Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh có sai lầm cả về tố tụng cũng như nội dung, bản án sơ thẩm chưa tính đủ các chi phí hợp lý cho việc thực hiện Dự án của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An”.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên quan điểm kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

1. Về tố tụng:

Tại Công văn số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An đó giao cho Công ty cơ khí Long An (nay là Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An) làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp tại Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang mở rộng, theo đó “Sau khi đầu tư xây dựng hạ tầng xong, Công ty cơ khí Long An giao lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An giao lại cho các doanh nghiệp thuê đất”. Tại điểm 1 mục II Công văn số 1130/UBND-KT ngày 10/3/2008, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An khẳng định: “…Chủ trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An chỉ giao cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An đầu tư hạ tầng, sau khi đầu tư hạ tầng xong giao lại Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An thực hiện việc giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An sẽ thanh toán chi phí đó đầu tư và quyết định lợi nhuận dự án trên cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An …”. Như vậy, để giải quyết triệt để tranh chấp các hợp đồng hợp tác đầu tư giữa Công ty LICO với Công ty Tân Lợi Lợi và giữa Công ty LICO với Công ty Năm Sao theo thỏa thuận về việc hoàn trả vốn đó đầu tư và giá trị lợi nhuận tăng thêm của Công ty LICO cho Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao thì Uỷ ban nhõn dõn tỉnh Long An phải xem xét, phê duyệt các chi phí mà Công ty LICO đó đầu tư vào dự án theo đúng quy định của pháp luật, trên cơ sở đó sẽ thanh toán chi phí đó đầu tư và quyết định lợi nhuận cho Công ty LICO được hưởng từ việc đầu tư dự án. Tòa án cấp sơ thẩm, do đánh giá không đúng nội dung Công văn số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003 và nội dung nêu tại điểm 1 mục I Công văn số 1130/UBND-KT ngày 10/3/2008 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An nên đã không đưa Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng, vi phạm thủ tục tố tụng. Việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty Thành Tài vào tham gia tố tụng trong vụ án này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vì cho rằng đã tách yêu cầu khởi kiện của Công ty LICO thành vụ án khác cũng là không đúng. Bởi lẽ, trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty Tân Lợi Lợi đã cho rằng việc Công ty LICO ký hợp đồng với Công ty Thành Tài đã xâm phạm đến quyền và lợi ích của Công ty Tân Lợi Lợi (diện tích 10 ha đất mà Công ty LICO ký hợp đồng với Công ty Thành Tài trùng với vị trí đất mà Công ty LICO đã hợp tác đầu tư với Công ty Tân Lợi Lợi). Mặt khác, do Công ty Thành Tài cũng là đối tác hợp tác đầu tư với Công ty LICO như Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao nên việc đầu tư và hưởng lợi nhuận của Công ty Thành Tài có liên quan đến cả ba Công ty LICO, Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao. Do Tòa án cấp sơ thẩm đó xem xét (nhận định) về việc không đưa Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An và Công ty Thành Tài tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án nên Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định và đưa Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An và Công ty Thành Tài tham gia tố tụng (ở giai đoạn phúc thẩm) với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng.

2.Về nội dung:

- Tại Công văn số 5667/CV-TA ngày 31/12/2003, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An đã có ý kiến chỉ đạo “Về chủ trương, Uỷ ban nhân dân tỉnh đồng ý giao cho Công ty cơ khí Long An làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp tại Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang mở rộng…Sau khi đầu tư xây dựng hạ tầng xong, Công ty cơ khí Long An giao lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để Uỷ ban nhân dân tỉnh cho các doanh nghiệp thuê đất”, nhưng tại Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HTĐT-05 ngày 22/4/2005, Công ty LICO và Công ty Tân Lợi Lợi thỏa thuận: Công ty LICO có trách nhiệm “Bảo đảm và hoàn tất các thủ tục pháp lý để bên B (Công ty Tân Lợi Lợi) có được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 25 ha hoặc đối với diện tích đất tương ứng với tỷ lệ mà bên B (Công ty Tân Lợi Lợi) đã gúp vốn của dự án ngay khi bên A (Công ty LICO) nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…” và tại Hợp đồng hợp tác đầu tư số 015K06HT ngày 07/02/2006, Công ty LICO và Công ty Năm Sao thỏa thuận “Trong trường hợp bên B (Công ty Năm Sao) đề nghị được chia lợi nhuận bằng sản phẩm của dự án thì bên A (Công ty LICO) có trách nhiệm liên hệ với các ngành chức năng của tỉnh Long An để chuyển giao quyền sử dụng đất cho bên B (Công ty Năm Sao) tương ứng với lợi nhuận mà bên B được chia”.

Thỏa thuận trên đây của Công ty LICO với Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao trái với chủ trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An, không phù hợp với quy định của Luật Đất đai.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định nội dung các thỏa thuận trên của các bên trong hợp đồng bị vô hiệu, lỗi thuộc về cả ba Công ty là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Các thỏa thuận khác còn lại của các bên trong hai hợp đồng trên không trái pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội có hiệu lực thi hành. Bởi vì: Cả hai hợp đồng được lập thành văn bản và được ký kết bởi những người đại diện có thẩm quyền của cả ba Công ty; sau khi Công ty LICO và Công ty Tân Lợi Lợi ký kết hợp đồng hợp tác đầu tư nói trên thì đã được Sở Công nghiệp và Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An cho phép Công ty LICO được hợp tác đầu tư dự án.

- Dự án đã thực hiện xong; các hợp đồng hợp tác đầu tư giữa Công ty LICO với Công ty Tân Lợi Lợi và giữa Công ty LICO với Công ty Năm Sao đều đã bị chấm dứt trước khi dự án hoàn thành, các bên có tranh chấp về việc thực hiện các hợp đồng này. Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết tranh chấp các hợp đồng hợp tác đầu tư ký giữa các bên đương sự nêu trên theo hướng giải quyết hậu quả của việc thanh lý hợp đồng là đúng. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Công ty Tân Lợi Lợi đã góp 16,95 tỷ đồng, Công ty Năm Sao góp 7,55 tỷ đồng; còn Công ty LICO báo cáo đã chi phí cho dự án là 61.618.334.566 đồng; ngoài ra, cũng theo báo cáo của Công ty LICO thì còn có các khoản dự kiến chi khác với tổng số tiền là 11.628.570.000 đồng. Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao không đồng ý với báo cáo về chi phí cho dự án của Công ty LICO. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ báo cáo của Công ty LICO để xác định số tiền chi phí thực tế của Công ty LICO đã đầu tư vào dự án là 60.465.334.566 đồng (theo xác định của Tòa án cấp sơ thẩm) hoặc là 59.161.750.350 đồng (theo xác định của Tòa án cấp phúc thẩm) là không đúng và việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Biên bản định giá tài sản ngày 21/3/2008 của Hội đồng định giá tài sản tỉnh Long An để xác định tổng doanh thu và lợi nhuận trước thuế, từ đó xác định số tiền các Công ty được hưởng từ việc thực hiện dự án cũng là không đúng. Bởi vì, theo chủ trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An tại Công văn số 1130/UBND-KT ngày 10/3/2008 thì sau khi đầu tư hạ tầng xong, Công ty LICO giao lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai; Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An sẽ thanh toán chi phí đã đầu tư và quyết định lợi nhuận dự án trên cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An. Do đó, toàn bộ các chi phí mà Công ty LICO đã đầu tư cho dự án cũng như lợi nhuận của dự án đều phải do Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An xem xét, quyết định; trên cơ sở đó, Tòa án mới có căn cứ xem xét, xác định số tiền mà Công ty LICO đã góp vào dự án (bằng việc lấy tổng chi phí cho dự án được Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An phê duyệt trừ đi số vốn mà Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao đã góp) và lợi nhuận mà Công ty LICO, Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao được hưởng theo thỏa thuận của các bên trong các hợp đồng hợp tác đầu tư. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm còn có các quyết định không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Ví dụ như: Công nhận thỏa thuận chia tách dự án theo tỷ lệ góp vốn theo tinh thần Công văn số 213/CV-CKXDLA ngày 01/11/2006 của Công ty LICO và Công văn số 5957/UBND-KT ngày 04/12/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An.

Theo Công văn số 213/CV-CKXDLA ngày 01/11/2006 thì Công ty LICO chấp nhận tách dự án 50 ha do Công ty LICO làm chủ đầu tư với các điều kiện Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao phải chấp nhận: 12 ha/50 ha giao cho Công ty Thành Tài; chi phí đầu tư của Công ty LICO đã bỏ ra (từ ngày 10-5-2005 đến ngày 21/9/2006) là 37.844.552.557 đồng phải được chấp nhận; phân chia chi phí theo tỷ lệ góp vốn kể cả chi phí tái định cư…; chuyển 7,5 tỷ đồng ngay khi có chủ trương tách dự án. Thực tế, cả 3 Công ty nêu trên đều đã họp nhiều lần nhưng không thống nhất được chi phí và phân chia chi phí…Tại Công văn số 5957/UBND-KT ngày 04/12/2006, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An có chủ trương tách dự án và yêu cầu cả 3 doanh nghiệp phải thống nhất được chi phí phân chia chi phí đầu tư theo tỷ lệ góp vốn trước khi tách dự án nhưng cho đến thời điểm Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An ban hành Công văn số 845/UBND-KT ngày 15/02/2007, Quyết định số 716/QĐ-UBND ngày 16/3/2007, Quyết định số 2433/QĐ-UBND ngày 20/9/2007, Quyết định số 1171/QĐ-UBND ngày 27/4/2007 (giao đất cho Công ty Năm Sao), Quyết định số 1174/QĐ-UBND ngày 27/4/2007 (giao đất cho Công ty Tân Lợi Lợi) thì các bên liên quan đến Hợp đồng số 59 và số 015 vẫn không thống nhất được chi phí và phân chia chi phí đã đầu tư cho dự án 50 ha. Với những nội dung như trên thì không có căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Công văn số 213/ CV-CKXDLA để công nhận Công ty LICO đã chấp nhận tách dự án…, theo đó giao đất dự án cho các bên là không đúng thẩm quyền. Việc giao đất hoặc cho thuê đất sau khi dự án hoàn thành thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An theo quy định của pháp luật về đất đai.

Với các lý do phân tích trên, cần thiết phải hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2008/KDTM-ST ngày 04/9/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Long An, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại theo hướng trên cơ sở quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An về tổng các chi phí mà Công ty LICO đã đầu tư vào dự án và lợi nhuận Công ty LICO được hưởng từ việc thực hiện dự án để xác định vốn góp và tỷ lệ vốn góp của Công ty LICO, Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao vào việc thực hiện dự án và lợi nhuận của các bên được hưởng từ việc thực hiện dự án theo thỏa thuận tại các hợp đồng hợp tác đầu tư theo đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH:

1.Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2008/KDTM-ST ngày 04/9/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Long An.

2.Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật

 

Tên bản án

Quyết định giám đốc thẩm số: 12/2009/KDTM-GĐT, ngày 14/12/2009 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư

Số hiệu 12/2009/KDTM-GĐT Ngày xét xử 14/12/2009
Bình luận án

Tiếng Việt

English