TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN


 
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
 
Quyết định  giám đốc thẩm
Số: 09 /2016/HS-GĐT
Ngày 03-8-2016
                                                                  
 
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN

TÒA ÁN  NHÂN DÂN TỐI CAO

Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có 16 thành viên tham gia xét xử, do ông Nguyễn  Hòa Bình, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm chủ tọa phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: bà Nguyễn Thị Yến, Kiểm sát viên  Viện  kiểm sát nhân dân tối cao.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: bà Trần Thị Quỳnh – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 03-8-2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
1. Đoàn Thị Thu A, sinh năm 1966; trú tại: đường S, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: khi phạm tội là thủ quỹ phòng giao dịch T, thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Đ; con ông Đoàn T và bà Nguyễn Thị P (đều đã chết); có chồng là Nguyễn K sinh năm 1963 và 02 con; bị bắt tạm giam từ ngày 08-7-2011 đến ngày 20-6-2012 được tại   ngoại.
2. Bùi Thị Hồng S, sinh năm 1980; trú tại: thôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: khi phạm tội là cán bộ tư pháp Ủy ban nhân dân xã H, thành  phố B; con ông Bùi Văn H và bà Trần Thị Phương T; có chồng là Lương Ngọc T sinh năm 1981 và 03 con; bị cáo tại ngoại.
Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo: Nguyễn Thị H bị kết án  về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Nguyễn Văn N, Trần D bị kết án về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”, Nguyễn Công A bị kết án về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; Trần Văn L, Phan Văn T bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm  gây  hậu  quả nghiêm trọng”.
* Người bị hại: có 60 người bị hại.

Người có  quyền lợi,  nghĩa  vụ liên quan: Có  27  người có quyền lợi, nghĩa vụ liên  quan.
 
NHẬN THẤY:
Nguyễn Thị H làm nghề mua bán nông sản,  đến năm 2005  thì  bắt đầu  làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng. Trong quá trình kinh doanh,  H  vay  tiền của  nhiều  người và trả lãi suất cao, mua nhiều nhà đất, xe ô  tô. Đến cuối năm 2008,    H biết số âm  nợ  khoảng gần 8.000.000.000 đồng, tài sản không đảm bảo  cho  việc thanh toán,  nhưng  H vẫn tiếp  tục  vay tiền của người khác  để trả nợ gốc  và lãi cho các khoản vay trước đó hoặc trả lãi cho chính khoản vay này.  Bằng thủ đoạn vay tiền trả lãi cao, vay ké trong hợp đồng tín dụng của người bị hại, để  người bị hại vay tiền ngân hàng rồi cho H vay  lại  và  được  H trả lãi suất cao… làm cho nhiều người bị hại tin tưởng  giao  tiền  cho  H vay hoặc  có người bị hại  do cả nể (vì nhiều năm nhờ H làm thủ tục vay tiền ngân hàng…) nên cho H vay. Trong quá trình làm hồ sơ vay  vốn ngân  hàng,  nhiều  người bị hại tin  tưởng H nên đã làm theo chỉ dẫn của H ký vào hợp  đồng thế chấp, hợp  đồng tín dụng, bảng kê chi nhận tiền… sau khi ký nhận tiền do thủ quỹ ngân hàng (Phòng giao dịch T thuộc Ngân hàng Nông nghiệp  và  Phát  triển  nông thôn chi nhánh  Đắk Lắk) đa số các bị hại không nhận tiền vay mà để cho H nhận và trừ các chi phí như tiền vay đáo hạn,  tiền  lãi,  tiền  hoa hồng…, có trường hợp  người bị hại đến lấy tiền vay thì H khất lần  không  đưa và  buộc  người bị hại phải ký giấy cho H vay lại… với nhiều thủ đoạn khác nhau,  từ cuối năm 2008 đến cuối năm 2009 H  đã lừa đảo chiếm đoạt được của nhiều người với tổng số tiền là 28.370.198.310 đồng, trong đó chiếm đoạt 8.921.050.000 đồng  của  người  bị  hại  vay  tiền  từ ngân hàng.
Đối với Đoàn Thị Thu A là Thủ quỹ, thủ kho phòng giao dịch T, thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và  Phát triển nông thôn chi nhánh Đ đã 06 lần giao  sai  quy định giấy tờ tài sản thế chấp cho cán bộ tín dụng là  Trần D và Nguyễn Văn   N để làm thủ tục hồ sơ vay mới. Trong toàn bộ quy trình này chủ sở hữu tài sản không biết và không ký nhận tài sản vào  sổ  giao  nhận  tài sản  do  A quản lý. Hành vi của A đã tạo điều kiện cho N, D làm hồ sơ cho H đáo hạn những hợp đồng đến hạn mà chủ tài sản không biết, hậu quả Nguyễn Thị H lừa vay ké chiếm đoạt của 06 bị hại số tiền: 1.467.000.000 đồng. Ngoài ra, Đoàn Thị Thu A còn có hành vi chi tiền vay cho khách hàng không đúng quy định trong hoạt động tín dụng; cụ thể là A biết Nguyễn Thị H là người làm  dịch vụ vay,  đáo  hạn ngân hàng, không phải là người vay tiền, nhưng  để H hoặc  người làm cho  H đi cùng viết chữ số vào bảng kê chi tiền của ngân hàng thay người bị hại (người bị hại chỉ ký vào bảng kê nhận tiền) nên không biết được số tiền vay và chiếm đoạt (trường hợp bà Đinh Thị P , H chiếm đoạt 250.000.000 đồng). Như vậy, hành vi của A đã tạo điều kiện để cho H lừa “vay ké” bị hại và chiếm đoạt số tiền 1.717.000.000 đồng trong tổng số tiền A có trách nhiệm chi cho các bịhại vay là 19.500.000.000 đồng.

Đối với Bùi Thị Hồng S là cán bộ tư pháp Ủy ban nhân dân xã H do nể nang đã nhiều lần làm trái công vụ tham mưu, trình lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã H ký chứng thực hợp đồng thế chấp tài sản, hồ sơ vay vốn không đúng quy định, gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của công dân; cụ thể là một số trường hợp S trình ký chứng thực hồ sơ vay vốn không có mặt người vay nên để H lợi dụng viết số tiền vay cao số tiền người vay muốn vay, hồ sơ chưa được xóa thế chấp, nhưng vẫn chứng thực thế chấp. Trong đó, có 06 hồ sơ một bên đồng sở hữu bị giả chữ ký để ngân hàng cho vay 2.850.000.000 đồng; hậu quả bị Nguyễn Thị H lừa đảo của các bị hại (vay ké) với số tiền là 621.750.000 đồng; bị Nguyễn Thị H lừa đảo chiếm đoạt tiền của các người bị hại vay số tiền 755.000.000 đồng, tổng cộng là 1.376.750.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2014/HSST ngày 03-4-2014, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk quyết  định:
Áp dụng khoản 3 Điều 179; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; xử phạt Đoàn Thị Thu A 07 năm tù về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong các hoạt động của tổ chức tín  dụng”;
Áp dụng khoản 3 Điều 281; điểm l,  p  khoản  1,  khoản  2 Điều  46;  Điều 47; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ  luật  hình sự xử phạt Bùi Thị Hồng S  06 năm tù  về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi  hành công  vụ”.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với  các bị cáo khác và phần trách nhiệm  dân sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định Đoàn Thị Thu A kháng  cáo xin xem xét lại toàn bộ bản án sơ  thẩm  đối với  bị cáo;  Bùi Thị Hồng S kháng  cáo kêu oan.
Tại Bản  án  hình  sự  phúc  thẩm số 340/2014/HSPT  ngày 19-9-2014, Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết   định:
Áp dụng khoản 3 Điều 179; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt Đoàn Thị Thu A 03 năm  tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động  của các tổ chức tín dụng”, thời gian thử thách là  5 năm; giao  bị cáo Đoàn Thị  Thu A cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B,  tỉnh Đắk Lắk để giám sát  và giáo  dục trong thời gian  thử thách.
Áp dụng khoản 3 Điều 281; điểm b,  p  khoản  1,  khoản  2  Điều  46;  Điều  47; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt  Bùi Thị Hồng S 02 năm tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Lợi dụng  chức  vụ,  quyền  hạn  trong khi thi hành công vụ”, thời gian thử thách  là  4 năm;  giao  bị cáo  Bùi Thị Hồng S cho  Ủy ban nhân dân xã E, huyện  K, tỉnh  Đắk Lắk  để giám  sát và giáo  dục trong  thời  gian  thử thách.

Ngoài ra, Bản án phúc  thẩm còn quyết  định  về tội danh,  hình phạt  đối với các  bị cáo khác  và phần trách  nhiệm   dân sự.
Tại Quyết định số 39/KN-HS  ngày  16-9-2015,  Chánh  án  Tòa  án  nhân  dân  tối cao đã Kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 340/2014/HSPT ngày 19-9-2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về phần trách nhiệm hình sự đối với các bịcáo Đoàn Thị Thu A và Bùi Thị Hồng S; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩmhủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Đoàn Thị Thu A và Bùi Thị Hồng S; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí và đề nghị Hội đồng Thẩm phán chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
XÉT THẤY:
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Đoàn Thị Thu A về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” theo khoản 3 Điều 179 Bộ luật hình sự; kết án Bùi Thị Hồng S về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự  là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong  quá trình xét xử Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm có một số sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật  như sau:
Đốivới Đoàn Thị Thu A: Chỉ được hưởng một tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 (điểm p) và 01 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, nhưng Tòa án cấp sơ thẩmvẫn áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để xử phạt Đoàn Thị Thu A 07 năm tù (dướimức khởi điểm của khung hình phạt) là áp dụng không đúng quy định của Bộ luật hình sự và đã là xem xét, khoan hồng đốivới bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện và chỉ ra sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm, mà còn quá nhấn mạnh đến việc bị cáo bị khối u đang điều trị để giảm hình phạt cho Axuống còn 03 năm tù (dướimức thấp nhất của khung hình phạt liền kề) và cho bịcáo được hưởng án treo là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự; đồng thời không đúng với quy định tại điểm d mục 1 Điều 2 và điểm b mục 3 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06-11-2013 của Hội đồng Thẩmphán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo (Tòa án cấp phúc thẩm cũng không áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự đốivới bị cáo A).
Đối với Bùi Thị Hồng S: Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng  các  điểm p, điểm s  khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Thị Hồng S 06 năm tù (dưới mức khởi điểm của khung hình phạt)  đã là  xem xét,  khoan  hồng đối với bị cáo.  Tòa án cấp phúc thẩm nhận định thêm bị cáo đang nuôi con nhỏ, chồng không quan tâm chăm  sóc các  con và tại phiên tòa các  bị hại đều đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho  bị  cáo

để giảm hình phạt cho bị cáo S xuống còn 02 năm tù và cho  hưởng  án treo  là  không  đúng quy định tại Điều 47 Bộ  luật  hình sự và quy định tại điểm d mục  1 và điểm b mục    3 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06-11-2013  của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật  hình sự về án treo;  không đáp ứng yêu cầu đấu tranh  phòng  chống loại tội phạm này  trong  giai đoạn hiện  nay. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt,  Hội đồng xét  xử  cũng  cân nhắc  để có  hình phạt phù hợp đối với hoàn cảnh của bị cáo.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT  ĐỊNH:

Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 340/2014/HSPT ngày 19-9-2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về phần trách nhiệm hình sự đối với các bịcáo Đoàn Thị Thu A và Bùi Thị Hồng S; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩmlại theo đúng quy định của pháp luật.
 
 
Nơi nhận:
-  Tòa án nhân dân cấp cao TP. Đà Nẵng (02 bản kèm hồ sơ vụ án);
-  Chánh án TANDTC (để báo cáo);
-  TAND tỉnh Đắk Lắk (để biết);
-  UBND phường T, thành phố  B, tỉnh  Đắk Lắk
(để biết);
-  UBND thôn P, xã E, huyện K, tỉnh  Đắk Lắk (để
biết);
-  Bị cáo Đoàn Thị Thu A (theo địa chỉ);
-  Bị cáo Bùi Thị Hồng S (theo địa chỉ);
-  Bị hại trong vụ án: có 28 bị hại (theo địa  chỉ);
- Lưu: Vụ GĐKT1, VP, HS.
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN CHỦ  TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)





 
 
 

Nguyễn Hòa Bình

 

 
 
Tên bản án

Quyết định số 09/2016/HS-GĐT ngày 03/08/2016 Đoàn Thị Thu A - Bị truy tố tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English