CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI GIẾT NGƯỜI
1. Về phia người phạm tội
a) Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm cả hành động và không hành động.
Trường hợp hành động thường được biểu hiện như: đâm, chém, bắn, đấm đá, đốt cháy, đầu độc, bóp cổ, treo cổ, trói ném xuống vực, xuống sông, chôn sống v.v...
b) Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác phải là hành vi trái pháp luật, tức là luật cấm mà cứ làm, luật bắt làm mà không làm.
Như vậy, sẽ có trường hợp tước đoạt tính mạng người khác được pháp luật cho phép như: hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong trường hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc thi hành một mệnh lệnh hợp pháp của nhà chức trách. Ví dụ: người cảnh sát thi hành bản án tử hình đối với người phạm tội .
Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người, tức là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Thực tiễn xét xử không phải bao giờ cũng dễ dàng xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người. Vì vậy, khi xác định mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi và hậu quả phải xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả với những đặc điểm sau:
c) Hành vi tước đoạt tính mạng người khác là hành vi được thực hiện do cố ý.
Cố ý giết người là trường hợp trước khi có hành vi tước đoạt tính mạng người khác, người phạm tội nhận thức rõ hành động của mình tất yếu hoặc có thể gây cho nạn nhân chết và mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân chết.
Những dấu hiệu khác như: thời gian. địa điểm, hoàn cảnh v.v... chỉ có ý nghĩa xác định mức độ nguy hiểm đối với hành vi giết người, chứ không có ý nghĩa định tội.
Chủ thể của tội giết người là bất kỳ, nhưng phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và phải là người đủ 14 tuổi trở lên, vì tội giết người là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Về phía nạn nhân
Người bị giết, phải là người còn sống, vì tội giết người là tội xâm phạm đến tính mạng con người. Nếu một người đã chết, thì mọi hành vi xâm phạm đến xác chết đó không phải là hành vi giết người, nhưng giết một người sắp chết vẫn là giết người.
Giết một đứa trẻ mới ra đời cũng là giết người, nhưng phá thai, dù cái thai đó ở tháng thứ mấy cũng không gọi là giết người, vì vậy giết một phụ nữ đang có thai không phải là giết nhiều người.
Trường hợp người phạm tội tưởng nhầm xác chết là người đang còn sống mà có những hành vi như bắn, đâm, chém... với ý thức giết thì vẫn phạm tội giết người. Khoa học luật hình gọi là sai lầm về đối tượng.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 38/2017/HS-ST Ngày 26 tháng 7 năm 2017
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Lê Duy Giá.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Thiệu Minh, bà Bùi Thị Bích Liên Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thanh Lan - Cán
bộ Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thơm - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 38/2017/HSST ngày 26/6/2017 đối với bị cáo:
Sái Văn L, sinh ngày 10/6/1964, sinh trú quán: thôn H1, xã K, huyện D, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; văn hoá 7/10; con ông Sái Văn T1, con bà Lê Thị L1; vợ Phạm Thị N, con có 02 con, con lớn SN 1988, con nhỏ SN 1992; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/01/2017 cho đến nay (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo Sái Văn L: Ông Dương Văn H2 và bà Nguyễn Đào T2, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư H3, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).
Người bị hại: Anh Nguyễn Viết T3 (đã chết).
Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Chị Liễu Thị B (vợ anh T3) trú tại: Thôn Đ1, xã K, huyện D, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Anh Sái Văn L2, sinh năm 1988, trú tại: thôn H1, xã K, huyện D, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).
- Anh Vũ Duy X, sinh năm 1988, trú tại: thôn C, xã K, huyện D, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Sái Văn L bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 27/01/2017 (tức ngày 30 Tết nguyên đán Đinh Dậu) anh Sái Văn L2 lái xe taxi BKS: 88A - 107.17 dừng đỗ ở lề đường
QL 2B, dưới gầm cầu vượt đường cao tốc C1 thuộc địa phận thôn H5, xã K, huyện D, tỉnh Vĩnh Phúc thì có Vũ Duy X điều khiển xe môtô BKS: 88K5 - 1986 đèo phía sau là cháu Nguyễn Ngọc P (SN: 2004) trú tại P. Tích Sơn, TP V, tỉnh Vĩnh Phúc đến nhờ L2 lái xe taxi đưa cháu P về nhà P. L2 trả lời là không nhận chở khách vì là ngày 30 tết nên X tiếp tục đi xe môtô đèo cháu P về nhà. Do bực tức việc L2 không nhận chở cháu P nên X gọi điện rủ anh Nguyễn Viết T3 (SN: 1989) trú tại thôn Đ1, xã K đến nói chuyện với L2, T3 đồng ý. X đi xe môtô đến đón T3, cả hai đi đến khu vực gầm cầu gặp L2. Khi đến nơi, T3 liền dùng tay tát vào mặt L2 làm L2 ngã xuống đất, sau đó T3 và X tiếp tục lao vào dùng chân, tay đấm, đá L2, nhưng L2 không đánh lại thì T3 và X thôi không đánh nữa và đi về. Trên đường về X và T3 gặp Dương Đức H4 (SN: 1994) và Hoàng Văn T5 (SN: 1983) đều trú tại xã K, huyện D đi trên xe ô tô BKS: 29A -
06.90 của T5 đi từ D ra V. H4 rủ X và T3 quay lại quán nước của ông Phạm Nghĩa H6 (SN: 1965) ở vỉa hè đường quốc lộ 2B, dưới gầm cầu vượt đường cao tốc C1 thuộc địa phận thôn H5, xã K uống nước thì X, T3 đồng ý. Thấy nhóm của X vào quán thì L2 đang ngồi ở quán liền đứng dậy đi ra xe taxi của mình ngồi. Do bị đánh đau nên L2 đã lấy điện thoại di động gọi điện cho bố đẻ L2 là Sái Văn L ra đưa L2 đi viện. Lúc này L đang ở nhà Sái Văn B1, là em con chú ruột của L, sau khi nghe điện thoại của anh L2 thì L nói chuyện lại với B1 là L2 bị đánh và L lấy xe máy để đi. Thấy vậy B1 đi xuống sân giếng nhà mình cầm theo 01 con dao nhọn dài 35cm (chuôi gỗ dài 14cm, lưỡi bằng kim loại màu đen dài 21cm, chỗ rộng nhất 2,8cm) đúc vào túi quần trái rồi ra đi cùng L. L điều khiển xe máy chở B1 đi ra gầm cầu gặp L2. Đến nơi thì L đỗ xe bên trái đường theo hướng V đi Đ2 rồi đi bộ sang vị trí xe taxi gặp hỏi L2 bị ai đánh, thì L2 chỉ tay vào X và T3 đang ngồi trong quán nước bảo đó là người đánh anh L2, còn B1 vẫn ngồi trên xe. L đi ra nói chuyện với T3, X thì hai bên có lời qua tiếng lại. T3 thách thức L. Do bực tức L chạy đến chỗ B1 đang đứng tại dải phân cách ở giữa đường, lấy con dao mà B1 đem theo từ nhà mà B1 đang đúc dao trong túi quần bên trái của mình. B1 giữ con dao lại không cho L lấy. B1 và L giằng co dao một lúc thì L lấy được con dao của B1. Sau khi lấy được dao L cầm dao trên tay chạy từ vị trí B1 đứng sang bên kia đường vị trí T3, X đang đứng để đánh nhau với T3, X. Khi L chạy đến đứng đối diện cách anh T3, X khoảng 60cm - 70cm, tay phải L cầm dao theo chiều thuận, mũi dao hướng về phía trước, L vung dao lên đâm 01 nhát vào vùng ngực trái của T3, mũi dao trúng vào cánh tay bên trái xuyên thấu vào trong qua hố nách thành ngực trái của T3, làm anh T3 gục xuống đường. Thấy anh T3 bị L đâm gục, X nhặt 01 viên gạch chỉ ở ven đường, cầm ở tay phải đập trúng vào người L, thấy X cầm gạch đánh bố mình, L2 liền cầm 01 gậy rút bằng kim loại ở tay phải chạy đến vụt trúng vào tay phải và vai phải của X, thì X bỏ chạy. Sau khi bị đâm thì anh T3 được X, T5 đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện V1 thì bị chết cùng ngày.
Sau khi xảy ra sự việc Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã tổ chức khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết quả:
1/ Khám nghiệm hiện trường:
Hiện trường nơi xảy ra vụ án trên đường, vỉa hè thuộc quốc lộ 2B, dưới gầm cầu vượt đường cao tốc C1, được trải nhựa, mặt đường phẳng, làn đường có chiều rộng là 7,65m, giữa hai làn đường có giải phân cách cứng. Cầu vượt đường cao tốc C1 có thiết kế gồm 06 chân cầu phía dưới.
Hiện trường cụ thể: Là làn đường, vỉa hè có chiều hướng từ TP V đi huyện Đ2. Quy ước lấy mép đường bên phải của làn đường từ V đi Đ2 làm chuẩn, lấy chân cầu hướng Đông Bắc (trên vỉa hè bên phải của làn đường từ V đi Đ2) làm mốc cố định. Vỉa hè bên phải có KT: dài 37m, rộng 17,5m được đổ bê tông và một phần trải nhựa. Tại vị trí mép vỉa hè và trên mặt vỉa hè phát hiện có 08 vết chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt, nằm trên diện 05m x 0,8m; điểm đầu nằm trên vỉa hè bên phải cách mép chuẩn 2,2m; cách mốc cố định là 10,02m, điểm cuối nằm trên mép vỉa hè giáp phần đường nhựa ký hiệu số 01 trên sơ đồ hiện trường (vị trí số 1 nằm ở hướng Tây Bắc của vỉa hè bên phải). Tại góc Tây Nam trên vỉa hè bên phải phát hiện đám vết màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt hình vòng cung, lưng cung quay về hướng Đông có chiều dài 14,6m, điểm đầu cách mép chuẩn 1,37m và cách mốc cố định 20,6m; điểm cuối của đám vết này nằm trên mặt đường nhựa QL2B làn đường theo hướng từ TP V đi Đ2, có dạng chảy loang nằm trên diện 1,3m x 0,6m, tâm vết này cách mép chuẩn 0,7m và cách đầu vị trí số 01 là 3,6m ký hiệu số 2 trên sơ đồ hiện trường. Trên mặt đường nhựa, làn đường theo hướng từ TP V đi Đ2 phát hiện 01 con dao nằm chếch chéo ra tim đường, chuôi dao cách mép chuẩn là 1,06m và cách mốc cố định 14,7m, đầu dao cách mép chuẩn 1,3m, dao có đặc điểm: Tổng chiều dài 35cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 21cm, đầu vát nhọn, dao có 01 lưỡi sắc, trên lưỡi dao có bám dính chất màu nâu đỏ, chuôi cầm của dao được làm bằng gỗ; phần rộng nhất của lưỡi dao là 2,8cm, ký hiệu số 3 trên sơ đồ hiện trường.
2/ Khám nghiệm tử thi Nguyễn Viết T3:
Khám ngoài: Các dấu vết tổn thương trên cơ thể: Tóc đen cắt ngắn, 02 mắt khép, 02 nhãn cầu không dập vỡ, đồng tử hai bên giãn tối đa, kết mạc hai bên nhợt. Hai lỗ tai, hai lỗ mũi sạch. Miệng khép, kiểm tra sờ nắn hai cung răng xương hàm không dập gãy. Cánh cẳng tay trái xăm bằng mực màu đen không rõ hình thù. 1/3 trên mặt trước cánh tay trái sát bờ trong đầu dưới cơ đen ta có vết thương nằm dọc, xuyên thấu qua mặt trong, mép vết thương gọn KT: 2,5cm x 1cm, mặt trong cánh tay KT: 2,6cm x 1cm, thấu vào trong qua hố nách thành ngực trái tương ứng với khoang liên sườn 3,4, đường nách giữa vết thương nằm dọc, bờ mép gọn KT: 3,2cm x 1,5cm thấu vào trong khoang ngực, có nhiều máu ở bên trong trào ra ngoài vết thương. Toàn bộ cơ thể dính nhiều dịch máu. Ngoài
ra kiểm tra các nơi khác bên ngoài cơ thể không phát hiện dấu vết tổn thương gì khác.
Kiểm tra sờ nắn bên ngoài xương hộp sọ, xương hàm mặt, xương ức, cung xương sườn 2 bên, khung xương chậu, xương cột sống và hệ thống xương tứ chi không dập gãy. Hậu môn sạch, bộ phận sinh dục ngoài bình thường, 02 tinh hoàn không tổn thương.
Mổ tử thi: Tiến hành rạch da cơ vùng ngực thấy: Tổ chức cân cơ dưới da màu hồng đều, xương ức và cung xương sườn hai bên không tổn thương, trong khoang ngực có khoảng 2000ml dịch máu loãng; mặt trong thành ngực bên trái tương ứng với khoang liên sườn 3, 4 cùng bên có vết thương thấu ngực, bờ mép tụ máu KT: 3,2cm x 0,5cm nằm dọc, mặt trước ngoài thùy trên phổi trái có vết thương thấu vào tổ chức phổi nằm dọc, miệng vết thương gọn, tụ máu dài 3,2cm, rộng 0,5cm, sâu 4cm, rỉ dịch và bọt khí.
3/ Vật chứng và tài sản tạm giữ.
- 01 con dao thu tại hiện trường là dao bị can L dùng đâm anh T3; 02 mẫu chất màu nâu đỏ thu ở vị trí số 1, số 2 tại hiện trường.
- 02 chiếc áo và 01 chiếc quần dài của tử thi. Các kết luận giám định.
* Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 23/TT ngày 06/02/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc về nguyên nhân tử vong của anh Nguyễn Viết T3 đã kết luận:
- Dấu hiệu qua giám định: Ít vết thương phần mềm 1/3 trên cánh tay trái, thành ngực trái. Chấn thương ngực hở, vết thương thấu ngực, rách thùy phổi trên bên trái, tràn dịch, tràn khí khoang ngực (khoảng 2000ml dịch trong khoang ngực).
- Nguyên nhân tử vong: Sốc mất máu, suy hô hấp không hồi phục.
- Cơ chế hình thành vết thương: Thương tích đã mô tả trên là do hung khí lạnh gây nên, có thể là vật sắc nhọn hướng từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong.
* Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định dấu vết màu nâu đỏ bám dính trên lưỡi con dao thu giữ tại hiện trường. Tại bản Kết luận giám định số: 449/C54(TT3) ngày 01/3/2017 của Viện khoa học hình sự đã kết luận: Trên con dao gửi giám định có bám dính máu của Nguyễn Viết T3.
* Tại bản Kết luận giám định số: 84/PY-XNĐH ngày 22/2/2017 của Viện pháp y quân đội đã kết luận: Mẫu máu của Nguyễn Viết T3 gửi giám định có ethanol, nồng độ 8,1mg/100ml máu. Mẫu máu của Nguyễn Viết T3 không phát hiện thấy các chất ma túy.
Đối với Sái Văn L2 bị Vũ Duy X, Nguyễn Viết T3 dùng chân tay đấm đá phải nằm điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc, sau đó ra viện tiếp tục điều trị ngoại trú tại nhà. L2 đã đề nghị cơ quan điều tra trưng cầu giám định tỷ lệ % thương tích.
* Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 116/TT ngày 27/4/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc đối với Sái Văn L2 kết luận:
- Dấu hiệu chính qua giám định: Kiểm tra các nơi tổn thương không để lại dấu vết thương tích gì. Xếp 0%.
- Hiện tại: Kiểm tra các nơi tổn thương không để lại dấu vết thương tích gì nên không đánh giá được cơ chế hình thành vết thương.
4/ Kết quả thực nghiệm điều tra:
Ngày 17/5/2017 cơ quan điều tra đã tổ chức thực nghiệm điều tra cho bị can Sái Văn L diễn lại hành vi phạm tội của mình theo lời khai của L. Kết quả thấy rằng hành vi phạm tội của L phù hợp với lời khai của L và các lời khai nhân chứng khác, phù hợp với thực tế.
5/ Về trách nhiệm dân sự:
- Chị Liễu Thị B (là vợ của anh T3) đại diện cho gia đình người bị hại yêu cầu bị can L phải bồi thường tổng số tiền: 446.000.000đ (Bốn trăm bốn mươi sáu triệu đồng) gồm các khoản sau:
+ Tiền chi phí mai táng cho anh T3: 42.000.000đ.
+ Tiền nuôi con nhỏ anh T3 là cháu Nguyễn Thu A (SN: 2011) đến năm đủ 18 tuổi: 234.000.000đ.
+ Tiền tổn thất tinh thần: 120.000.000đ.
+ Tiền nuôi dưỡng bố mẹ già không có khả năng lao động: 50.000.000đ. Đến nay bị can L đã bồi thường được cho gia đình người bị hại
80.00.00 đồng.
- Sái Văn L2 bị Vũ Duy X, Nguyễn Viết T3 dùng chân tay đấm đá bị thương phải nằm điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc, sau đó ra viện tiếp tục điều trị ngoại trú tại nhà. L2 yêu cầu X phải bồi thường tổng số tiền: 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) gồm các khoản sau:
+ Tiền cấp cứu điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh: 3.000.000đ.
+ Tiền mua thuốc điều trị ngoại trú: 4.000.000đ.
+ Tiền công lao động của anh L2 trong 90 ngày không lao động được phải nghỉ ở nhà: 18.000.000đ.
+ Tiền tổn thất tinh thần: 15.000.000đ.
X không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của anh L2.
- Anh Vũ Duy X bị Sái Văn L2 cầm gậy rút 3 khúc bằng kim loại đánh, nH6 do thương tích nhẹ, nên không có đề nghị gì.
- Bị can Sái Văn L bị Vũ Duy X cầm gạch đánh bị thương nhẹ, nên không có đề nghị gì.
Tại Cáo trạng số: 42/KSĐT- P1 ngày 23/6/2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Sái Văn L về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 93 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Sái Văn L khai nhận như đã khai tại Cơ quan điều tra,
xin Hôi
đồng xét xử xem xét giảm nhe ̣hình phaṭ.
Người đại hợp pháp của người bị hại, chị Liễu Thị B đề nghị Hội đồng xét xử bị cáo theo qui định của pháp luật. Buộc bị cáo phải bồi thường cho gia đình chị 42.000.000 đồng chi phí cho việc mai táng phí và 234.000.000 đồng tiền nuôi con anh T3 và 120.000.000 đồng tổn thất tinh thần. Hiện gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình chị 80.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ khoản 2 Điều 93; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Sái Văn L từ 12 đến 14 năm tù. Ngoài ra còn đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại tiền mai tang phí, tiền tổn thất về tinh thần như đề nghị của đại diện người bị hại; tiền cấp dưỡng nuôi con anh T3 từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng/tháng.
Người bào chữa cho các bị cáo, Luật sư Nguyễn Đào T2 và Luật sư Dương Văn H2 cho rằng: Các Cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy tố bị cáo Sái Văn L về tội “Giết người” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, đề nghị Tòa áp dụng các điểm b, p, đ, s khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Về tình tiết bị cáo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong quân ngũ được ghi trong lý lịch quân nhân của bị cáo, bố bị cáo là người có công với nước với thành tích tham gia 17 trận đánh giặc cũng được ghi trong lý lịch của ông Sái Văn T1. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 BLHS để xem xét xử bị cáo mức án tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người đại diện hợp pháp của người bị hại, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 27/01/2017, tại gầm cầu vượt đường cao tốc C1 QL2B thuộc thôn H5, xã K, huyện D, tỉnh Vĩnh Phúc. Xuất phát từ việc Nguyễn Việt T3 và Vũ Duy X có hành vi dùng chân, tay không đánh Sái Văn L2, L2 đã điện thoại cho Sái Văn L là bố đẻ của L2 đã đến xô sát với T3 và X.
T3 đã thách thức đánh nhau với L. L đã cầm dao nhọn dài 35cm (chuôi gỗ dài 14cm, lưỡi bằng kim loại màu đen dài 21cm, chỗ rộng nhất 2,8cm) ở tay phải theo chiều thuận, mũi dao hướng về phía trước đâm 01 nhát về phía T3, mũi dao đã trúng vào cánh tay bên trái xuyên thấu vào trong qua hố nách thành ngực trái của T3, vết thương thấu ngực vào phổi anh T3, hậu quả làm anh T3 sốc mất máu, suy hô hấp không hồi phục dẫn đến tử vong.
Hành vi nêu trên của Sái Văn L là rất nghiêm trọng, bất chấp pháp luật, coi thường tính mạng người khác được pháp luật bảo vệ. Chỉ vì bênh con, L đã dùng dao là hung khí nguy hiểm đâm vào hố nách, thấu phổi không thể cứu chữa được, tước đoạt mạng sống của anh T3, gây mất trật tự trị an trong xã hội, gây đau thương tang tóc cho gia đình nạn nhân, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội tại địa P, làm quần chúng nhân dân lên án và bất bình. Hành vi phạm tội nêu trên của Sái Văn L đã phạm vào tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999, khoản 2 Điều 93 BLHS quy định "2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm", cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Hậu quả tội phạm bị cáo L gây ra rất nặng nề cho gia đình anh T3 lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt cao của khung hình phạt đã quy định, xem xét tổng thể các tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử thấy: Trong vụ án này, bị cáo L không có tình tiết tăng nặng. Tại phiên toà bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS; gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường 80.000.000 đồng cho gia đình bị hại mà bị cáo không tác động gì gia đình, theo quy định tại tiểu mục 1.2 Điều 1 của Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì: Đối với các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm đ và e tiểu mục 1.1 mục 1 này mà bị cáo không có việc tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, nếu những người này tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì bị cáo chỉ được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự. (Lời khai, bản cung, kiểm điểm của bị cáo từ BL 92 đến 139) không thể hiện bị cáo tác động gì với gia đình bị cáo, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Nguyên nhân xảy ra vụ án một phần do người bị hại và anh Vũ Duy X đã vô cớ đánh anh Sái Văn L2, anh L2 điện thoại gọi bố là L ra để đưa L2 đi bệnh viện, khi L ra gặp anh X và anh T3 thì hai bên xô sát nhau, anh X và anh T3 có lời thách thức bị cáo, L đã bức xúc không kìm chế được bản thân và dùng dao đâm anh T3 tử vong. Do vậy Hội đồng xét xử thấy cần thiết tuyên cho bị cáo mức án tù tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo gây ra để bị cáo cải tạo trở thành người tốt cho xã hội. Các tình tiết giảm nhẹ khác mà Luật sư nêu ra như bố bị cáo có công với nước, bị cáo có thành tích xuất sắc chỉ ghi
trong lý lịch là không đủ căn cứ theo quy định vì nếu có thành tích xuất sắc thì phải được Nhà nước ghi nhận bằng Bằng khen, các Huân Huy chương… trở lên; tình tiết quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì bị cáo L năm nay 53 tuổi, là tổ trưởng tổ liên gia thôn, là an ninh thôn khi gặp tình huống con bị người khác đánh mà bị kích động đến mức cầm dao đâm chết người khác là không có căn cứ, quan điểm của Luật sư về các tình tiết giảm nhẹ nêu trên và đề nghị áp dụng Điều 47 không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của người bị hại đã vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại tổng số: 446.000.000 đồng, công nhận gia đình bị cáo đã bồi thường được 80.000.000 đồng. Bị cáo L đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
Từ nhận xét bên trên về nguyên nhân dẫn đến việc L dùng dao đâm anh T3, làm anh T3 tử vong (một phần do bị hại), Hội đồng xét xử thấy: Qua xác minh của cơ quan điều tra chi phí cho một đám tang bình thường ở địa phương trong huyện D khoảng 35.000.000 đồng, nay Hội đồng xét xử buộc bị cáo chịu
25.000.000 đồng; tiền tổn thất về tinh thần cho hàng thừa kế thứ nhất của anh T3: theo quy định tại Điều 591 Bộ luật Dân sự thì: Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận đườc thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Như nhận xét trên nguyên nhân dẫn đến vụ án một phần do lỗi của bị hại nên Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận buộc bị cáo bồi thường mức bồi thường bù đắp về tinh thần 70.000.000 đồng là phù hợp.Tổng số 95.000.000 đồng được trừ
80.000.000 đồng đã bồi thường, còn phải bồi thường 15.000.000 đồng; buộc bị cáo bồi thường tiền cấp dưỡng nuôi con của anh T3 đối với cháu Nguyễn Thu An sinh ngày 23/10/2 011, được tính bằng ½ tháng lương tối thiểu theo quy định của Nhà nước (1.300.000 đồng/tháng/2 bằng 650.000 đồng/tháng); thời hạn cấp dưỡng tính từ tháng 01/2017 cho đến khi cháu An đủ 18 tuổi. Đối với yêu cầu cấp dưỡng cho bố mẹ anh T3: Bố anh T3 là ông Nguyễn Viết S sinh năm 1959, mẹ anh T3 là bà Lại Thị X1 sinh năm 1963, bố mẹ anh T3 đều vẫn khỏe mạnh, vẫn sinh sống bình thường, không ở cùng vợ chồng anh T3 chưa cần sự cấp dưỡng của anh T3. Do vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu được cấp dưỡng nuôi bố mẹ già của đại diện người bị hại.
Về yêu cầu của anh Sái Văn L2 bị anh Vũ Duy X và Nguyễn Viết T3 đánh. Xác định anh X và anh T3 vô cớ đánh anh L2 làm cho anh L2 bị đau và phải đi viện. Anh T3 và anh X phải bồi thường toàn bộ thiệt hại của anh L2. Nay anh T3 bị chết, anh X phải bồi thường cho thiệt hại cho anh L2 theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự. Theo yêu cầu của anh L2: tiền thuốc điều trị ở bệnh viện là 3triệu đồng, tiền thuốc mua ngoài là 4 triệu đồng không có hóa đơn chứng từ gì; trong bệnh án và thanh toán viện phí của Bệnh viên Đa khoa Vĩnh Phúc (BL 278, 279) tiền viện phí và tiền thuốc của anh L2 là 777.490 đồng, khoản này được Hội đồng xét xử
chấp nhận; tiền một ngày nằm viện (27/01 đến 28/01/2017) và một người nuôi bằng 02 ngày x 200.000 đồng/ngày = 400.000 đồng; tiền nghỉ trong 15 ngày tiếp theo x 200.000đồng bằng 3.000.000 đồng. Với thương tích 0% của thanh niên như anh L2 sau khi điều trị vết thương vẫn hoạt động bình thường, không ảnh hưởng gì đến tinh thần nên yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tổng số tiền anh X phải bồi thường cho anh L2 là 4.177.490 đồng.
Sau khi án có hiệu lực pháp luật người được thi hành án có đơn xin thi hành án, người phải thi hành án không nộp tiền bồi thường cho người được thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi xuất đối với khoản tiền chưa thi hành án theo quy định của pháp luật.
Về xử lý tang vật: Áp dụng Điều 41 BLHS năm 1999, điều 76 BLTTHS năm 2003: tịch thu tiêu hủy 01 con dao nhọn dài 35cm (hung khí gây án), 02 áo, 01 quần dài không còn giá trị sử dụng.
Như vậy quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tại phiên tòa về hình phạt đối với bị cáo được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo và anh Vũ Văn X phải chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Sái Văn L phạm tội “Giết người”.
Áp dụng khoản 2 Điều 93; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Sái Văn L 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 27/01/2017.
Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 590, 591 của Bộ luật dân sư.̣
Buộc bị cáo Sái Văn L bồi thường cho đại diện người bị hại 95.000.000 đồng gồm tiền mai táng phí, và tiền tổn thất về tinh thần, gia đình bị cáo đã bồi thường 80.000.000 đồng, bị cáo còn phải bồi thường 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng). Buộc bị cáo Sái Văn L phải cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Thu A sinh ngày 23/10/2011 (con của anh T3) mỗi tháng 650.000đ (Sáu trăm năm mươi nghìn đồng) kể từ tháng 01/2017 đến khi cháu An đủ 18 tuổi.
Buộc anh Vũ Duy X bồi thường cho anh Sái Văn L2 4.177.490đ (Bốn triệu một trăm bảy mươi bảy nghìn bốn trăm chín mươi đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, số tiền nêu trên người phải thi hành án không trả được, thì hàng tháng còn phải trả tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.
Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 con dao nhọn dài 35cm (hung khí gây án), 02 áo, 01 quần dài không còn giá trị sử dụng.
(Đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/6/2017 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc và Cục thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc).
Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án,
Buộc Sái Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự trong vụ án hình sự. Buộc Sái Văn L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.
Buộc anh Vũ Duy X phải chịu 208.874,5đ (Hai trăm L2 tám nghìn, tám trăm bảy tư phảy năm đồng) án phí dân sự đối với số tiền phải bồi thường cho anh L2.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc;
- Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Phúc;
- Công an tỉnh Vĩnh Phúc;
- Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc;
- Cục thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc;
- Người tham gia tố tụng;
- Thi hành án hình sự;
- Lưu hồ sơ, Toà hình sự, văn phòng.
|
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(đã ký)
Lê Duy Giá
|
|
|
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Giết nhiều người ( điểm a khoản 1 Điều 93)
Giết nhiều người là trường hợp người phạm tội có ý định giết từ hai người trở lên hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả nhiều người chết xảy ra.
Về trường hợp phạm tội này hiện nay cũng có nhiều ý kiến khác nhau, có quan điểm cho rằng chỉ coi là giết nhiều người nếu có từ hai người chết trở lên, nếu người phạm tội có ý định giết nhiều người, nhưng chỉ có một người chết thì không coi là giết nhièu người. Quan điểm này, theo chúng tôi không có cơ sở khoa học và thực tiễn. Bởi vì, thực tiễn xét xử không ít trường hợp không có ai bị giết cả nhưng vẫn có người bị xét xử về tội giết người. Đó là trường hợp giết người chưa đạt. Trong trường hợp giết nhiều người cũng vậy, chỉ cần xác định người phạm tội có ý định giết nhiều người là thuộc trường hợp phạm tội này rồi mà không nhất thiết phải có nhiều người chết mới là giết nhiều người. Ví dụ: A có mâu thuẫn với gia đình B, nên A có ý định giết cả nhà B. Nhằm lúc gia đình B đang quây quần bên mâm cơm, A rút chốt lựu đạn ném vào chỗ cả nhà B đang ăn cơm, nhưng lựu đạn không nổ.
Tuy nhiên, trường hợp người phạm tội có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp) thì phải có từ hai người chết trở lên mới gọi là giết nhiều người.
Như vậy, nhiều người bị giết phải đều thuộc trường hợp quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự thì người phạm tội mới bị coi là giết nhiều người và bị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự.
Nếu có hai người chết, nhưng lại có một người do lỗi vô ý của người phạm tội thì không coi là giết nhiều người mà thuộc trường hợp phạm hai tội: "Giết người" và "vô ý làm chết người". Ví dụ: A và B cùng uống rượu ở nhà A, "rượu vào lời ra" dẫn đến hai người cãi lộn, A bực tức rút súng bắn B. Thấy A rút súng bắn mình, B hoảng sợ bỏ chạy ra cửa; vừa lúc đó, con của A thấy hai người to tiếng chạy vào, A nổ súng, đạn xuyên qua ngực B trúng vào đầu con của A; cả B và con của A đều bị chết.
Nếu có hai người chết, nhưng chỉ có một người thuộc trường hợp quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự còn người kia lại thuộc trường hợp trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hoặc thuộc trường hợp làm chết người trong khi thi hành công vụ thì không thuộc trường hợp giết nhiều người mà tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người quy định tại khoản 2 Điều 93 và một tội khác ( giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh hoặc giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng...)
Giết phụ nữ mà biết là có thai ( điểm b khoản 1 Điều 93)
Là trường hợp người phạm tội biết rõ người mình giết là phụ nữ đang có thai (không kể tháng thứ mấy). Nếu nạn nhân là người tình của người phạm tội thì thuộc trường hợp giết người vì động cơ đê hèn.
Nếu người bị giết có thai thật, nhưng có căn cứ để xác định người phạm tội không biết họ đang có thai thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội giết phụ nữ mà biết là có thai. Ví dụ: A là khách qua đường vào ăn phở trong tiệm phở của chị H. A chê phở không ngon, chị H cũng chẳng vừa bèn nói lại: "ít tiền mà cũng đòi ăn ngon, đồ nhà quê!" A bực tức lao vào đấm đá chị H liên tiếp. Do bị đá đúng chỗ hiểm chị H đã chết sau đó vài giờ. Khi khám nghiệm tử thi mới biết chị H đang có thai hai tháng.
Ngược lại, trong trường hợp người phụ nữ bị giết không có thai, nhưng người phạm tội tưởng lầm là có thai và sự lầm tưởng này của người phạm tội là có căn cứ, thì người phạm tội vẫn bị xét xử về tội giết người trong tường hợp "giết phụ nữ mà biết là có thai". Ví dụ: K là tên lưu manh cùng đi một chuyến ô tô với chị M. Do tranh giành chỗ ngồi nên hai bên cãi nhau. K đe doạ: "Về tới bến biết tay tao!" Khi xe đến bến, K thấy chị M đi khệnh khạng, bụng lại hơi to, K tưởng M có thai, vừa đánh chị M, K vừa nói: "Tao đánh cho mày truỵ thai để mày hết thói chua ngoa". Mọi người thấy K đánh chị M bèn can ngăn và nói: "Người ta bụng mang dạ chửa đừng đánh nữa phải tội". Nhưng K vẫn không buông tha. Bị đá vỡ lá lách nên chị M bị chết. Sau khi chị M chết mới biết là chị không có thai mà chị giấu thuốc lá 555 trong người giả vờ là người có thai để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Biên bản khám nghiệm tử thi cũng kết luận là chị M không có thai.
Giết phụ nữ mà biết là có thai là dấu hiệu thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội chứ không phải dấu hiệu khách quan như trường hợp phạm tội đối với phụ nữ có thai quy định tại điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Trường hợp quy định tại điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự chỉ cần xác định người bị hại là phụ nữ có thai là đủ căn cứ xác định là tình tiết tăng nặng rồi không cần phải xác định người phạm tội có biết hay không biết rõ người phụ nữ có thai hay không.
Giết trẻ em (điểm c khoản 1 Điều 93)
Giết trẻ em là trường hợp người phạm tội đã cố ý tước đoạt tính mạng của trẻ em
Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ em.
Giết trẻ em được coi là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ những người không có khả năng tự vệ.
So với tội giết người được quy định tại Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 thì trường hợp giết trẻ em quy định tại điểm c khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định mới nên chỉ áp dụng đối với người phạm tội thực hiện hành vi kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.
Khi áp dụng tường hợp phạm tội này cần chú ý một số điểm sau:
- Việc xác định tuổi của người bị hại là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của người bị hại là trẻ em, nêu không có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp nhưng vẫn không xác định được tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này tính tuổi của người bị hại như thế nào ? Hiện nay có hai ý kiến trái ngược nhau: ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này là không có lợi cho ngời phạm tội. Còn ý kiến thứ hai thì cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này theo hướng có lợi cho người phạm tội. Để có căn cứ xác định tuổi của người bị hại nhất là người bị hại lại là trẻ em, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.1
- Phạm tội đối với trẻ em nói chung và giết trẻ em nói riêng không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội mà là tình tiết khách quan, do đó không cần người phạm tội phải nhân thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em thì mới coi là tình tiết tăng nặng, mà chỉ cần xác định người mà người phạm tội xâm phạm là trẻ em thì người phạm tội đã bị coi là phạm tội đối với trẻ em rồi.
Đây là trường hợp người bị giết là người đang thi hành công vụ, Tức là người bị giết đang thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao phó. Nhiệm vụ được giao có thể là đương nhiên do nghề nghiệp quy định: cán bộ chiến sĩ công an nhân dân đang làm nhiệm vụ bảo vệ, thầy thuốc đang điều trị tại bệnh viện; thầy giáo đang giảng bài hoặc hướng dẫn học sinh tham quan, nghỉ mát; thẩm phán đang xét xử tại phiên toà; cán bộ thuế đang thu thuế; thanh niên cờ đỏ, dân quân tự vệ đang làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự ở nơi công cộng v.v...
Cũng được coi là đang thi hành công vụ đối với nhưng người tuy không được giao nhiệm vụ nhưng họ tự nguyện tham gia vào việc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong một số trường hợp nhất định như: đuổi bắt người phạm tội bỏ trốn; can ngăn, hoà giải những vụ đánh nhau ở nơi công cộng v.v...
Nạn nhân bị chết phải là lúc họ đang làm nhiệm vụ, thì người phạm tội mới bị coi là phạm tội trong trường hợp "giết người đang thì hành công vụ". Nếu nạn nhân lại bị giết vào lúc khác thì không thuộc trường hợp giết người đang thi hành công vụ, mà tuỳ từng trường hợp có thể là giết người bình thường hoặc thuộc trường hợp khác.
Nạn nhân bị giết phải là người thi hành nhiệm vụ đúng pháp luật, nếu trái với pháp luật mà bị giết thì người có hành vi giết người không phải là "giết người đang thi hành công vụ". Ví dụ: một người tự xưng là công an đòi khám nhà của người khác. Chủ nhà yêu cầu xuất trình lệnh khám nhà, nhưng người này không đưa, dẫn đến hai bên xô xát và chủ nhà đâm chết người này.
Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình (điểm đ khoản 1 Điều 93)
Đây là trường hợp giết người mang tính chất phản trắc, bội bạc; giết người mà người bị giết đáng lẽ người phạm tội phải có nghĩa vụ kính trọng. Việc nhà làm luật coi trường hợp giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự ( tình tiết định khung tăng nặng) là xuất phát từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, truyền thống tôn sư trọng đạo. Bộ luật hình sự năm 1985 không coi trường hợp phạm tội này là tình tiết định khung hình phạt. Tuy nhiên trong một số trường hợp nếu người phạm tội giết người có tính chất bội bạc phản trắc thì áp dụng tình tiết " giết người vì động cơ đê hèn". Nay Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định trường hợp giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình là tình tiết định khung tăng nặng. Do đó Toà án chỉ áp dụng tình tiết này đối với người thực hiện hành vi phạm tội kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.
Ông, bà bao gồm cả ông, bà nội; ông, bà ngoại. Cha, mẹ bao gồm cả cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi; cha, mẹ vợ hoặc cha, mẹ chồng. Người nuôi dưỡng là những người tuy không phải là ông, bà, cha, mẹ nhưng đã nuôi dưỡng người phạm tội từ bé, thường là những người có hàng thân thích với người phạm tội như: chú, dì, cô, bác, cậu, mợ... hoặc tuy không phải là người thân thích với người phạm tội, nhưng là người chăm sóc, nuôi dưỡng người phạm tội trong các Trại mồ côi, Trại điều dưỡng. Thầy, cô giáo của người phạm tội là người đã và đang dạy người phạm tội. Tuy niên, trong trường hợp giết thầy, cô giáo phải xác định người phạm tội giết thầy, cô giáo với động cơ phản trắc và người thầy, người cô đó phải là người có một quá trình dạy dỗ nhất định đối với người phạm tội. Nếu vì động khác và người thầy, người cô đó không có quá trình nhất định trong việc dạy dỗ người phạm tội thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Trần Văn Q là sinh viên năm thứ tư Trường Đại học X. Do có mâu thuẫn với Bùi Đức T là giảng viên của nhà trường vì T và Q đều yêu Vũ Thi C là học viên cùng lợp với Q. Tuy là giảng viên, nhưng T chỉ hơn Q mấy tuổi và là học viên khoá trước được nhà trường giữ lại làm giảng viên và không giảng ở lớp Q giờ nào. Vì không muốn cho T yêu C, nên Q đã rủ một số học viên cùng lớp gây sự rồi đánh T bị trọng thương, đưa vào bệnh viện cấp cứu thì chết.
Giết người mà liền trước đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 93)
Là trường hợp trước khi giết ngươi, người phạm tội đã phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng3. Ví dụ: A vừa sử dụng vũ khí cướp tài sản của B, đang bỏ chạy thì gặp C là người mà y đã thù ghét từ trước, sẵn có vũ khí trong tay, A gây sự và giết chết B.
Tuy chưa có giải thích hoặc hướng dẫn như thể nào là liền trước đó, nhưng qua thực tiễn xét xử chỉ coi là liền trước hành vi giết người, nếu như tội phạm được thực hiện trước đó về thời gian phải liền kề với hành vi giết người có thể trong khoảng thời gian vài giờ đồng hồ hoặc cùng lắm là trong ngày, nếu tội phạm người phạm tội thực hiện trước đó có khoảng cách nhất định không còn liền với hành vi giết người thì không coi là giết người mà liền trước đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự
Khác với trường hợp giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác ở chỗ: tội phạm của người phạm tội trước khi giết người không liên quan với tội giết người và phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng chứ không phải là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng
3 Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đén mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Giết người mà ngay sau đó phạm một tội một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 93)
Trường hợp giết người này cũng tương tự như trường hợp giết người mà liền trước đó phạm một tội phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, chỉ khác nhau ở chỗ: Tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng mà người phạm tội thực hiện diễn ra ngay sau đó chứ không phải ngay trước đó. Ví dụ: A vừa giết người đang chạy trốn thì gặp B đi xe máy Draem II, A dùng vũ khí khống chế cướp xe máy của B để chạy trốn. Cùng vì thế mà nhà làm luật quy định trường hợp phạm tội này cùng trong mọt điểm với trường hợp giết người mà liền trước đó phạm một tội phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự)
Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử hay bị nhầm lẫn với trường hợp giết người để thực hiện hoặc để che giấu tội phạm khác quy định tại điểm g khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Để phân biệt hai trường hợp giết người này, chúng ta có sơ đồ so sánh như sau:
điểm g khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự
|
điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự
|
-Tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người có thể là tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng và cũng coa thể là tội nghiêm trọng và tội ít nghiêm trọng.
- Về thời gian, tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người có thể xảy ra trước đó hoặc sau đó một thời gian ngắn, nhưng cũng có thể cách tội giết người một thời gian dài.
- Tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người có liên quan mật thiết đến tội giết người (không giết người thì không thực hiện được tội phạm đó hoặc không che giấu được tội phạm đó)
|
- Tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người chỉ là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng
- Tội phạm mà người phạm tội thực hiện phải xảy ra liền trước đó hoặc ngay sau đó, không có khoảng cách.
- Tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người không liên quan đến tội giết người.
|
Giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (điểm h khoản 1 Điều 93)
Đây là trường hợp giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thay thế hoặc để bán cho người khác dùng vào việc thay thế bộ phận đó. Trường hợp giết người này thực tiễn chưa xảy ra, nhưng trên thế giới nhiều nước đã có tình trạng giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân nhằm thay thế bọ phận đó cho mình hoặc cho người thân của mình hoặc bán để người khác thay thế bộ phận đó. Tham khảo pháp luật các nước, đòng thời dự kiến trong tình hình phát triển của xã hội có thể có trường hợp giết người này nên Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định trường hợp giết người này là tình tiết định khung tăng nặng để đề phòng thực tế có thể xảy ra.
Nếu vì quá căm tức mà người phạm tội sau khi giết người đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân để nhằm mục đích khác cho hả dận thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Sau khi giết người, người phạm tội đã mổ bụng, lấy gan nạn nhân cho chó ăn.
Thực hiện tội phạm một cách man rợ (điểm i khoản 1 Điều 93)
Tính chất man rợ của hành vi giết người thể hiện ở chỗ, làm cho nạn nhân đau đớn, quằn quại trước khi chết như: mổ bụng, moi gan, khoét mắt, chặt chân tay, xẻo thịt, lột da, tra tấn cho tới chết...Các hành vi trên, người phạm tội thực hiện trước khi tội phạm hoàn thành, tức là trước khi nạn nhân bị chết.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng đã coi các hành vi nêu trên là những hành vi có tính chất man rợ, nhưng không phải là thực hiện tội phạm mà là để che giấu tội phạm, là trường hợp "thực hiện tội phạm một cách man rợ". Ví dụ: sau khi đã giết người, người phạm tội cắt xác nạn nhân ra nhiều phần đem vứt mỗi nơi một ít để phi tang. Đây là vấn đề về lý luận cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi nếu coi cả những hành vi có tính chất man rợ nhằm che giấu tội giết người cũng là "thực hiện tội phạm một cách man rợ" thì nên quy định trường hợp phạm tội này là "phạm tội một cách man rợ", vì phạm tội bao hàm cả hành vi che giấu tội phạm, còn thực hiện tội phạm mới chỉ mô tả những hành vi khách quan và ý thức chủ quan của cấu thành tội giết người.
Giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp (điểm k khoản 1 Điều 93)
Đây là trường hợp người phạm tội dã sử dụng nghề nghiệp của mình để làm phương tiện giết người dễ dàng và cũng dễ dàng che giấu tội phạm như: bác sĩ giết bệnh nhân, nhưng lập bệnh án là nạn nhân chết do bệnh hiểm nghèo; Bảo vệ bắn chết người, nhưng lại vu cho họ là kẻ cướp. Lợi dụng nghề nghiệp đẻ giết người là phạm tội với thủ đoạn rất xảo quyệt, nên nhà làm luật không chỉ dừng lại ở quy định là tình tiết tăng nặng theo Điều 48 Bộ luật hình sự mà coi thủ đoạn này là tình tiết định khung hình phạt.
Phải xác định rõ người phạm tội đã lợi dụng nghề nghiệp của mình để giết người thì mới thuộc trường hợp phạm tội này. Nếu người có hành vi giết người bằng phương pháp có tính chất nghề nghiệp, nhưng đó không phải là nghề nghiệp của y mà lại lợi dụng người có nghề nghiệp đó rồi thông qua người này thực hiện ý đồ của mình thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: một kẻ đã đánh tráo ống thuốc tiêm của y tá điều trị, thay vào đó một ống thuốc giả có nhãn hiệu như ống thuốc thật, nhưng có độc tố mạnh để mượn tay người y tá giết chết bệnh nhân mà y có thù oán.
9. Giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (điểm h khoản 1 Điều 93)
Đây là trường hợp giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thay thế hoặc để bán cho người khác dùng vào việc thay thế bộ phận đó. Trường hợp giết người này thực tiễn chưa xảy ra, nhưng trên thế giới nhiều nước đã có tình trạng giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân nhằm thay thế bọ phận đó cho mình hoặc cho người thân của mình hoặc bán để người khác thay thế bộ phận đó. Tham khảo pháp luật các nước, đòng thời dự kiến trong tình hình phát triển của xã hội có thể có trường hợp giết người này nên Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định trường hợp giết người này là tình tiết định khung tăng nặng để đề phòng thực tế có thể xảy ra.
Nếu vì quá căm tức mà người phạm tội sau khi giết người đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân để nhằm mục đích khác cho hả dận thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Sau khi giết người, người phạm tội đã mổ bụng, lấy gan nạn nhân cho chó ăn.
Thực hiện tội phạm một cách man rợ (điểm i khoản 1 Điều 93)
Tính chất man rợ của hành vi giết người thể hiện ở chỗ, làm cho nạn nhân đau đớn, quằn quại trước khi chết như: mổ bụng, moi gan, khoét mắt, chặt chân tay, xẻo thịt, lột da, tra tấn cho tới chết...Các hành vi trên, người phạm tội thực hiện trước khi tội phạm hoàn thành, tức là trước khi nạn nhân bị chết.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng đã coi các hành vi nêu trên là những hành vi có tính chất man rợ, nhưng không phải là thực hiện tội phạm mà là để che giấu tội phạm, là trường hợp "thực hiện tội phạm một cách man rợ". Ví dụ: sau khi đã giết người, người phạm tội cắt xác nạn nhân ra nhiều phần đem vứt mỗi nơi một ít để phi tang. Đây là vấn đề về lý luận cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi nếu coi cả những hành vi có tính chất man rợ nhằm che giấu tội giết người cũng là "thực hiện tội phạm một cách man rợ" thì nên quy định trường hợp phạm tội này là "phạm tội một cách man rợ", vì phạm tội bao hàm cả hành vi che giấu tội phạm, còn thực hiện tội phạm mới chỉ mô tả những hành vi khách quan và ý thức chủ quan của cấu thành tội giết người.
Giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp (điểm k khoản 1 Điều 93)
Đây là trường hợp người phạm tội dã sử dụng nghề nghiệp của mình để làm phương tiện giết người dễ dàng và cũng dễ dàng che giấu tội phạm như: bác sĩ giết bệnh nhân, nhưng lập bệnh án là nạn nhân chết do bệnh hiểm nghèo; Bảo vệ bắn chết người, nhưng lại vu cho họ là kẻ cướp. Lợi dụng nghề nghiệp đẻ giết người là phạm tội với thủ đoạn rất xảo quyệt, nên nhà làm luật không chỉ dừng lại ở quy định là tình tiết tăng nặng theo Điều 48 Bộ luật hình sự mà coi thủ đoạn này là tình tiết định khung hình phạt.
Phải xác định rõ người phạm tội đã lợi dụng nghề nghiệp của mình để giết người thì mới thuộc trường hợp phạm tội này. Nếu người có hành vi giết người bằng phương pháp có tính chất nghề nghiệp, nhưng đó không phải là nghề nghiệp của y mà lại lợi dụng người có nghề nghiệp đó rồi thông qua người này thực hiện ý đồ của mình thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: một kẻ đã đánh tráo ống thuốc tiêm của y tá điều trị, thay vào đó một ống thuốc giả có nhãn hiệu như ống thuốc thật, nhưng có độc tố mạnh để mượn tay người y tá giết chết bệnh nhân mà y có thù oán.
Giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người (điểm l khoản 1 Điều 93)
Phương pháp có khả năng làm chết nhiều người là nói đến tính năng, tác dụng của phương tiện mà người phạm tội sử dụng khi phạm tội có tính nguy hiểm cao, có thể gây thương vong cho nhiều người như: ném lựu đạn vào chỗ đông người, bỏ thuốc độc vào bể nước nhằm giết một người mà người phạm tội mong muốn.
Hậu quả của hành vi sử dụng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người có thể chết người mà người phạm tội mong muốn và có thể chết người khác, có thể chết nhiều người và cũng có thể không ai bị chết. Nhưng người phạm tội vẫn bị coi là giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người và bị xử lý theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu không có ai bị chết thì người phạm tội được áp dụng Điều 18 Bộ luật hình sự về trường hợp "giết người chưa đạt"
Thuê giết người (điểm m khoản 1 Điều 93)
Thuê giết người là trường hợp trả cho người khác tiền hoặc lợi ích vất chất để họ giết người mà mình muốn giết.
Cũng giống như những trường hợp thuê làm một việc, người phạm tội vì không trực tiếp thực hiện hành vi giết người nên đã dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để thuê người khác giết người. Người trực tiếp giết người trong trường hợp này là người giết thuê.
Thuê giết người và giết người thuê có mói quan hệ mật thiết với nhau, cái này là tiền đề của cái kia, thiếu một trong hai cái thì không có trường hợp giết người này xảy ra (có người thuê, mới người làm thuê).
Thông thường việc giết người thuê và thuê giết người đồng thời là trường hợp giết người có tổ chức, nhưng cũng thể chỉ là trường hợp đồng phạm bình thường. Ví dụ: Phạm Văn T đến nhà Hoàng Thị X là người yêu chơi. Tại đây. T gặp Hoàng Văn H là anh họ của X và Bùi Công Q đang nói chuyện với X. T biết H rủ Q đến nhà X chơi là để giới thiệu X cho Q. T giả vờ xin phép về, trên đường về T gặp Bùi Đức C và Trần Văn S. T nói với C và S: "Chúng mày làm việc hai thằng đang ở trong nhà X cho tao, xong việc tao sẽ thưởng" C và S nhận lời, còn T về nhà chờ kết quả. C và S đã chuẩn bị một đoạn tre dài 1m có đường kính 3 cm ngồi phục sẵn ở gốc cây trước cổng nhà X chờ H và Q ra để đánh. Khi H và Q từ nhà X đi ra, S bấm đền pin còn C dùng đoạn tre vụt một cái thật mạnh vào đầu Q làm cho Q gục chết tại chỗ. Đánh xong, C và S chạy vè báo tin cho T biết là đã đánh một đứa gục rồi. T đưa cho C và S mõi tên 500.000 đồng và bảo chúng trốn đi mọt thời gian bao giờ tình hình êm thì hãy về.
Giết người thuê (điểm m khoản 1 Điều 93)
Là trường hợp người phạm tội lấy việc giết người làm phương tiện để kiếm tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Vì muốn có tiền nên người phạm tội đã nhận lời với người thuê mình để giết một người khác. Việc trừng trị đối với kẻ giết thuê là nhằm ngăn chặn tình trạng "đâm thuê chém mướn", nhất là trong nền kinh tế thị trường, ở nơi này hoặc nơi khác đã xuất hiện những tên, những nhóm người chuyên hoạt động đâm thuê chém mướn, thì việc trừng trị thật nghiêm đối với bọn người này là rất cần thiết.
Người phạm tội phải có ý thức giết thuê thật sự mới là phạm tội vì động cơ đê hèn. Vì nể hoặc sợ nên người phạm tội nhận lời giết người thì không phải là "giết thuê".
Giết người có tính chất côn đồ (điểm n khoản 1 Điều 93)
Là trường hợp khi giết người, người phạm tội rõ ràng đã coi thường những quy tắc trong cuộc sống, có những hành vi ngang ngược, giết người vô cớ (không có nguyên cớ) hoặc cố tình sử dụng những nguyên cớ nhỏ nhặt để giết người. Ví dụ: Đặng Văn T ngồi xem phim trong rạp, mặc dù đã có thông báo: "không hút thuốc lá trong rạp", nhưng T vẫn cứ hút thuốc, những người ngồi bên cạnh góp ý. T không những không nghe mà còn gây gổ, chửi tục làm mất trật tự; buổi chiếu phim phải tạm dừng. Khi người bảo vệ đến yêu cầu T tắt thuốc lá và giữ trật tự để buổi chiếu phim tiếp tục, T tỏ thái độ hung hăng buộc người bảo vệ phải mời T ra khỏi rạp. T liền rút dao găm trong người ra đâm vào ngực người bảo vệ làm cho người này chết tại chỗ.
Tuy nhiên, việc xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ không phải bao giờ cũng dễ dàng như các trường hợp giết người khác được quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử không ít trường hợp giết người không thuộc các trường hợp khác quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự , thì các Toà án thường xác định giết người có tính chất côn đồ để áp dụng khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Nhiều bản án đã bị kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm hặc bị Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao sửa bản án sơ thẩm chỉ vì xác định không đúng tình tiết này. Đây cũng là một vấn đề hiện nay còn nhiều vướng mắc và cũng là vấn đề phức tạp có nhiều ý kiến khác nhau; việc tổng kết kinh nghiệm xét xử về vấn đề này chưa đáp ứng tình hình phạm tôi xảy ra. Do đó ảnh hưởng không ít đến việc áp dụng pháp luật.
Khi xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ cần phải có quan điểm xem xét toàn diện, tránh xem xét một cách phiến diện như: chỉ nhấn mạnh đến nhân thân người phạm tội , hoặc chỉ nhấn mạnh đến địa điểm xảy ra vụ giết người hay chỉ nhấn mạnh đến hành vi cu thể gây ra cái chết cho nạn nhân, đâm nhiều nhát dao vào người nạn nhân là có tính chất côn đồ; nhưng có trường hợp người phạm tội chỉ đâm một nhát trúng tim nạn nhân chết ngay cũng là có tính chất côn đồ. Cần xem xét đến mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân, thái độ của người phạm tội khi gây án, nguyên nhân nào dẫn đến việc người phạm tội giết người v.v...
Giết người có tổ chức (điểm o khoản 1 Điều 93)
Là trường hợp nhiều người tham gia vào một vụ giết người, có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện việc giết người; có sự phân công; có kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc giết người.
Nếu nhiều người cùng tham gia vào một vụ án giết người, nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ, mà chỉ có sự đồng tình có tính chất hời hợt thì không phải là giết người có tổ chức. Ví dụ: một số thanh niên ở xã A đi xem phim, gây gổ đánh nhau với một số thanh niên ở xã B dẫn đến một thanh niên ở xã A bị thanh niên ở xã B đánh chết. KHi đã xác định giết người có tổ chức thì tất cả những người cùng tham gia vụ giết người dù ở vai trò nào (chủ mưu hay giúp sức, chỉ huy hay thực hành...) đều bị coi là giết người có tổ chức. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt (cá thể hoá hình phạt) phải căn cứ vào vai trò, vị trí của từng người tham gia vào vụ án. Có thể kẻ bị tử hình, nhưng có kẻ chỉ bị phạt ba hoặc bốn năm tù.
18. Giết người vì động cơ đê hèn ( điểm q khoản 1 Điều 93)
Động cơ đê hèn của người phạm tội giết người được xác định qua việc tổng kết kinh nghiệm xét xử nhiều năm ở nước ta. Thực tiễn xét xử đã coi những trường hợp sau đây là giết người vì động cơ đê hèn:
Giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ hoặc chồng khác.
Vì muốn tự do lấy vợ hoặc chồng khác nên người phạm tội đã giết vợ hoặc giết chồng của mình. Phải có căn cứ xác định người phạm tội vì muốn lấy vợ hoặc lấy chồng khác mà buộc phải giết vợ hoặc giết chồng mình thì mới coi là giết người vì động cơ đê hèn. Nếu vì một lý do khác, người phạm tội đã giết vợ hoặc giết chồng sau đó mới có ý định lấy vợ hoặc lấy chồng khác thì không phải giết người vì động cơ đe hèn. Ví dụ: Nguyễn Văn T đi làm về, chưa thấy vợ nấu cơm, liền nổi giận đá vợ mấy cái vào bụng. Do bị đá vỡ lá lách nên vợ T bị chết sau 4 tiếng đồng hồ. T hoảng sợ lấy thuốc sâu đổ vào miệng vợ rồi nói với mọi người rằng vợ y tự tử. Với hành động đó, T đã che giấu tạm thời hành vi phạm tội của mình. Sau khi chôn cất vợ, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn lại phải nuôi con nhỏ nên sau một năm T lấy vợ khác để chăm sóc con cái và giúp y trong việc nội trợ. Lấy vợ được 6 tháng thì hành vi giết vợ của T bị phát hiện.
b) Giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân.
Thông thường, trong trường hợp này giữa người có hành vi giết người với vợ hoặc chồng nạn nhân có qan hệ thông gian với nhau. Tuy nhiên, có trường hợp cá biệt không có quan hệ thông gian từ trước, nhưng trước khi giết nạn nhân người có hành vi giết người đã có ý định lấy vợ hoặc chồng nạn nhân. Trường hợp có quan hệ thông gian từ trước và cả hai đều là thủ phạm thì một người phạm tội thuộc trường hợp "giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ, lấy chồng khác" còn một người phạm tội thuộc trường hợp "Giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân".
Ví dụ: Phạm Văn K là nhân viên bảo vệ trường dạy nghề của tỉnh Q. K đã nhiều lần quan hệ bất chính với M là vợ của anh H. Để lấy được nhau, K và M đã bàn bạc giết anh H; theo kế hoạch đã định, M rủ anh Hvaof rừng lấy nấm, khi anh H đi qua chỗ K phục sẵn, M ra hiệu để k nổ súng bắn chết anh H. Trường hợp này K giết anh H là để lấy vợ H còn M giết H là để tự do lấy K.
c) Giết người tình mà biết họ đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm.
Đây là trường hợp giết phụ nữ mà biết là có thai, nhưng nạn nhân lại là người tình với người phạm tội .
Trách nhiệm mà người phạm tội trốn tránh là trách nhiệm làm bố đứa trẻ, do có trách nhiệm này mà có thể làm cho người phạm tội bị ảnh hưởng đến nhiều mặt trong cuộc sống như: bị kỷ luật, bị xã hội lên án, bị gia đình, vợ con ruồng bỏ xa lánh v.v...
Nạn nhân có thai là yếu tố bắt buộc để xác định bị cáo phạm tội trong trường hợp này. Nhưng nếu nạn nhân không có thai mà nói dối với bị cáo là đã có thai nhằm thúc ép bị cáo phải cưới mình và bị cáo vì sợ trách nhiệm nên đã giết nạn nhân thì vẫn bị coi là phạm tội vì động cơ đê hèn.
d) Giết chủ nợ để trốn nợ.
Nhân dân ta có truyền thống đoàn kết thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Trong quan hệ vay mượn cũng là biểu hiện của tinh thần đó. khi gặp khó khăn, túng thiếu đã được người khác cưu mang giúp đỡ, lẽ ra phải biết ơn, ngược lại kẻ được cưu mang giúp đỡ lại giết người cưu mang, giúp đỡ mình nhằm trốn nợ.
Bị cáo giết nạn nhân chủ yếu nhằm trốn nợ, nhưng không phải cứ có vay mượn, nợ nần mà đã vội xác định người phạm tội giết người vì động cơ đê hèn, mà phải xác định việc vay mượn đó có xuất phát từ tình cảm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau không? Nếu nạn nhân là người cho vay lãi nặng, có tính chất bóc lột thì không thuộc trường hợp phạm tội vì động cơ đê hèn.
đ) Giết người để cướp của.
Là trường hợp, người phạm tội muốn chiếm đoạt tiền của do nạn nhân trực tiếp quản lý (chiếm hữu) nên đã giết họ. Tính chất đê hèn của trường hợp giết người này cũng là vì tiền.
Người phạm tội giết người trong trường hợp này phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội: Tội giết người và tội cướp tài sản... Riêng tội giết người người phạm tội đã có hai tình tiết định khung tăng nặng đó là: "vì động cơ đê hèn và để thực hiện một tội phạm khác", người có hành vi giết người để cướp của thường bị phạt với mức án cao như tù chung thân hoặc tử hình nếu họ đã đủ 18 tuổi trở lên.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử ít có Toà án xác định người phạm tội giết người để cướp của là trường hợp "giết người vì động cơ đê hèn" mà chỉ coi là "giết người để thực hiện tội phạm khác" , vì như trên đã nêu người có hành vi giết người cướp của đã phạm một lúc hai tội nghiêm trọng và hình phạt đối với họ cũng rất nghiêm khắc, nên ít ai bàn đến việc có cần phải áp dụng thêm tình tiết "giết người vì động cơ đê hèn" hay không? Chính vì vậy mà không ít người cho rằng giết người để cướp của không phải là vì động cơ đê hèn.
e) Giết người là ân nhân của mình.
Được coi là ân nhân của kẻ giết mình trong trường hợp nạn nhân là người đã có công giúp đỡ người phạm tội trong lúc khó khăn mà bản thân người phạm tội không thể tự mình khức phục được. Việc giúp đỡ của nạn nhân đối với người phạm tội lẽ ra y phải chịu ơn suốt đời, nhưng đã bội bạc phản trắc, đã giết người giúp mình, chứng tỏ sự hèn hạ cao độ.
Khi xác định nạn nhân có phải là ân nhân của người có hành vi giết người hay không xét trong hoàn cảnh cụ thể; mối quan hệ phải rõ ràng, được dư luận xã hội thừa nhận và không trái pháp luật. Nếu hành vi trái pháp luật của nạn nhân làm cho kể giết người phải chịu ơn thì không coi là giết người là ân nhân của mình. Ví dụ: một giám thị đưa bài cho thí sinh chép trong phòng thi, một cán bộ tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa rồi đem tài sản đó giúp người khác, một cán bộ quản giáo tha người trái pháp luật; một thẩm phán cố tình đưa ra một bản án trái pháp luật có lợi cho người phạm tội v.v...