Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.
 

Giới thiệu về chuyên đề

 

Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới mạnh mẽ về tất cả các mặt của cuộc sống. Sự phát triển quá nhanh này gắn với sự cũ kỹ của hệ thống hánh chính nhà nước cồng kềnh, vận hành kém hiệu quả, đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về trình độ và việc đề ra những biện pháp để cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước là rất cần thiết. Trong các chức năng của Thanh tra Chính phủ thì giải quyết khiếu nại, tố cáo là một nhiệm vụ quan trọng giúp duy trì ổn định tình hình chính trị - xã hội của đất nước ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Từ nhiều năm nay, tình hình khiếu nại, tố cáo luôn là vấn đề bức bách được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về vấn đề này, đã có tác động đến tình hình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhiều “điểm nóng”, nhiều vụ việc phực tạp đã được giải quyết, góp phần làm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, thời gian gần đây tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân diễn ra không bình thường, số lượng gia tăng, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân diễn ra không bình thường, số lượng gia tăng, tính chất phức tạp, trong đó khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chiếm số lượng lớn, ở một số tỉnh, thành phố riêng về đất đai chiếm số lượng rất lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Tây, Thái Bình, Cần Thơ, Hải Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Sóc Trăng…

Tình hình khiều nại, tố cáo, tranh chấp của công dân trong lĩnh vực đất đai diễn ra gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nhiều nơi đã trở thành điểm nóng. Số lượng đơn vượt cấp gửi đến các cơ quan ở Trung ương nhiều, nội dung thể hiện tính bức xúc gay gắt, không chấp nhận với cách giả quyết của chính quyền địa phương. Số lượng công dân đến khiếu nại trực tiếp tại phòng tiếp dân của các địa phương, các cơ quan ở Trung ương hàng năm cao, nhiều vụ việc công dân tụ tập thành đoàn, đi xe, căng cờ, biểu ngữ…kéo đến các cơ quan chính quyền, Đảng,…nhằm gây áp lực đòi được giải quyết quyền lợi theo yêu cầu. Số lượng công dân tập trung đông chủ yếu ở các kỳ họp Hội đồng nhân dân, Quốc hội, Đại hội đảng, có nơi công dân tập trung huy động thương binh, phụ nữ, người già, trẻ em bao vây trụ sở chính quyền xã, huyện, tỉnh, doanh nghiệp gây mất trật tự, an toàn xã hội, tình hình trên nếu không xử lý kịp thời sẽ rất phức tạp, gây tâm lý hoang mang, thiếu tin tưởng vào chính quyền, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và lợi ích quốc gia.

 Chính vì vậy việc tìm hiểu thực trạng và tìm giải pháp để giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một chuyên đề rất hay và cấp thiết, nó giúp cho sinh viên thực tập tại thanh tra chính phủ có được cái nhìn tổng quát về thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố cáo ở địa phương; những bất cập giữa pháp luật hiện hành với thực tiễn; những vấn đề bức xúc, tồn đọng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ở địa phương và tìm ra những giải pháp khắc phục.

                         

Những nội dung chính

Chương I: Cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại , tố cáo trong lĩnh vực đất đai

 

1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo

  A. Khái niệm khiếu nại

Khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Như vậy, khiếu nại là một hình thức công dân hướng đến các cơ quan nhà nước hay tổ chức xã hội, tố chức kinh tế, đơn vị vũ trang khi thấy quyết định hành chính hay hành vi hành chính của họ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Mặt khác, khiếu nại là phương tiện mà nhờ đó cơ quan nhà nước hay tổ chức, những người có chức vụ kiểm tra được tính hợp pháp, hợp lý trong các quyết định hành chính, hành vi hành chính do ban hành hay thực hiện. Về mặt pháp luật, quyền khiếu nại của công dân luôn được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của nhà nước ta.

Khiếu nại có thể được thể hiện dưới hình thức văn bản (đơn khiếu nại) hoặc trình bày trực tiếp.

 B.  Khái niệm tố cáo

          Khoản 2 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: “Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

          Mục đích của tố cáo không chỉ dừng ở việc bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích của người tố cáo mà cao hơn thế là bảo vệ lợi ích của Nhà nước, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước vững về chính trị, giỏi về chuyên môn để “chí công, vô tư” trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ Nhà nước.

 

2. Quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

2.1. Khiếu nại, tố cáo về đất đai

          Khiếu nại về đất đai là việc các cơ quan, tổ chức, công dân đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại QĐHC, HVHC trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyết định hành chính bị khiếu nại trong quản lý đất đai bao gồm: quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; quyết định bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư; quyết định cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất. Hành vi hành chính bị khiếu nại trong quản lý đất đai là hành vi của cán bộ công chức nhà nước khi thực hiện công việc liên quan đến các hoạt động nói trên.

          Tố cáo về đất đai là sự phát hiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những hành vi vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cá nhân thuộc các đơn vị đó hoặc của những người khác, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích của người sử dụng đất.

2.2. Trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai

2.2.1 Trình tự giải quyết khiếu nại

2.2.1a Những quy định chung

          Căn cứ Luật đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003, căn cứ Nghị định số 181/2004/NĐ-CP và Nghị định số 84/2007/NĐ-CP, việc giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai được tiến hành theo trình tự sau đây:

          Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại không tính vào thời hiệu khiếu nại.

Theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo, thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết không quá 45 ngày (kể từ ngày thụ lý để giải quyết). Trường hợp ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý đề giải quyết và không quá 60 ngày đối với những vụ việc phức tạp (khoản 1 Điều 36 Luật khiếu nại, tố cáo)          

          Khoản 1 Điều 43 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 60 ngày. ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết và không quá 70 ngày đối với những vụ việc phức tạp. 

          Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 43 của Luật khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân; đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn nói trên có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 45 ngày (Điều 46 Luật khiếu nại, tố cáo).

2.2.1b Trình tự giải quyết khiếu nại đối với Quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tích UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi tắt là Chủ tịch UBND cấp huyện)

          Trong thời hạn không quá 90 ngày, kể từ ngày Chủ tịch UBND cấp huyện có QĐHC, HVHC trong quản lý đất đai quy định tại Điều 162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP  mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với QĐHC, HVHC đó thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến UBND cấp huyện.

          Chủ tịch UBND cấp huyện có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật khiếu nại, tố cáo (khoản 1 Điều 36).

          Trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp huyện mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện ra Toà án nhân dân hoặc khiếu nại đến UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là UBND cấp tỉnh).

          Trường hợp khiếu nại đến UBND cấp tỉnh thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật khiếu nại, tố cáo. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp tỉnh là quyết định giải quyết lần hai.

2.2.1c Trình tự giải quyết khiếu nại đối với Quyết định hành chính, Hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp tỉnh

          Trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày Chủ tịch UBND cấp tỉnh có QĐHC, HVHC trong quản lý đất đai quy định tại Điều 162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với QĐHC, HVHC đó thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến UBND cấp tỉnh.

          Chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật khiếu nại, tố cáo.

          Trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp tỉnh mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân.

2.2.1d Những trường hợp khác

          Việc giải quyết khiếu nại đối với HVHC của cán bộ công chức (CBCC) thuộc UBND xã, phường, thị trấn; HVHC của CBCC thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường; HVHC của CBCC thuộc Văn phòng UBND huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh; HVHC của CBCC thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường; HVHC của CBCC thuộc Văn phòng UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; QĐHC của Sở Tài nguyên và Môi trường và QĐHC, HVHC về quản lý đất đai của Chủ tịch UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp tỉnh không thuộc Điều 162 Nghị định 181/2004/NĐ-CP được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

2.2.2 Trình tự giải quyết tố cáo

          Việc giải quyết tố cáo về đất đai cơ bản giống như giải quyết tố cáo nói chung. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về đất đai mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ trong quản lý đất đai của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.

          Chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo phải thụ lý để giải quyết. Trường hợp tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải chuyển cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo biêt khi họ có yêu cầu.

          Thời hạn giải quyết tố cáo không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Thời hạn này là không quá 90 ngày, đối với những vụ việc phức tạp.

          Trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết thì người tố cáo có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người giải quyết tố cáo. Thời hạn giải quyết vẫn là không quá 60 ngày (và không quá 90 ngày đối với những vụ việc phức tạp).

          Trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố cáo, nếu thấy có dấu hiệu phạm tội thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận, giải quyết tố cáo phải chuyển tin báo, chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát để giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

3. Chức năng và nhiệm vụ của Thanh tra Chính phủ trong giải quyết khiếu nại, tố cáo         

Theo Điều 14 Luật Thanh tra 2004, Điều 1 Nghị định 55/2005/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, có chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ quyền hạn thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng ngừa, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

Về giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Chính phủ có nhiệm vụ: tổ chức việc tiếp dân, tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại tố cáo theo thẩm quyền; giải quyết khiếu nại mà thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết nhưng còn khiếu nại (quyết định này là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng); kiến nghị Bộ trưởng hoặc yêu cầu Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi, đôn đốc các Bộ giải quyết khiếu nại có liên quan đến nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực quản lý Nhà nước; xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ khi được giao; xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật, trong trường hợp kết luận việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người giải quyết xem xét, giải quyết lại.

Về tổ chức, Thanh tra Chính phủ gồm Văn phòng, 9 Vụ và các tổ chức sự nghiệp (Viện Khoa học Thanh tra, Trường Cán bộ Thanh tra, Báo Thanh tra, Tạp chí Thanh tra, Trung tâm tin học). Trong đó, Vụ thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo khu vực I (gọi tắt là Vụ IV) có chức năng tham mưu giúp Tổng Thanh tra thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng trong phạm vi địa giới hành chính được phân công. Vụ IV có nhiệm vụ tiếp nhận, xử lý các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc khối địa phương theo địa bàn hoặc các vụ việc do Tổng thanh tra giao; phối hợp với Vụ tiếp dân và xử lý đơn thư (Vụ VI) tiếp công dân đến Thanh tra Chính phủ khiếu nại với những vụ việc giao cho Vụ xem xét; kiểm tra, xem xét, kết luận và kiến nghị Tổng Thanh tra giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với những vụ việc Thủ tướng Chính phủ, Tổng Thanh tra giao. Phạm vi địa giới hành chính được phân công cho Vụ IV gồm các tỉnh, thành phố miền Bắc, miền Trung (từ Phú Yên trở ra) và Tây Nguyên.   

     

Chương II: Thực trạng giải quyết khiếu nại

tố cáo trong lĩnh vực đất đai ở địa phương

Theo báo cáo của Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2007, trong 9 tháng đầu năm các cơ quan nhà nước đã tiếp trên 240.000 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo; tiếp nhận trên 143.000 đơn thư khiếu nại, tố cáo với hơn 61.000 vụ việc, So với cùng kỳ năm 2006, tổng số người khiếu nại, tố cáo tăng khoảng 56%, số đơn thư khiếu nại, tố cáo tăng khoảng 44%, số vụ việc tăng 36%.

 

1. Nội dung khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về đất đai

Nội dung khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về đất đai chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau:

a. Bồi thường giải phóng mặt bằng, bố trí táI định cư:

khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư:

Khiếu nại về bồi thường giảI phóng mặt bằng thường gay gắt, công dân tụ tập đông người, xảy ra tập trung ở những nơI thu hồi diện tích đất lớn để bố trí phát triển các dự án, người cí đất bụ thu hồi khiếu nại về thực hiện không đúng quy hoạch, không đúng diện tích, vị trí, giá đền bù thấp, không đáp ứng yêu cầu ổn định cuộc sống….

Ngoài ra, còn một số khiếu nại: dồ thực hiện chính sách bồi thường về đất đai do trước đấy chưa được thực hiện trong việc trưng dụng, thu hồi đất; giảI toả hành lang an toàn giao thông.

b. Đòi lại đất cũ:

- Đòi lại đất trước đây đưa vào Hợp tác xã nông nghiệp (HTX) hay Tập đoàn sản xuất nông nghiệp (TĐSX), đã giao khoán cho các hộ khác sử dụng, khi HTX, TĐSX tan rã có tình trạng ruộng đát của ai, người đó lấy lại sử dụng, nhưng một bộ phận nông dân không lấy lại được ruộng đất vì người khác đang sử dụng hoặc chính quyền đã sử dụng vào mục đích khác.

- Đòi lại đất khi Nhà nước thực hiện chính sách “nhường cơm, sẻ áo”; đất cho người khác thuê, mượn để sản xuất, làm nhà ở hoặc nhờ người trông coi trước năm 197; nay những người này đang sủ dụng.

- Đòi lại đất chính quyền chế độ cũ lấy để sử dụng, sau giảI phóng, Nhà nước tiếp quản hoặc giao cho người khác sử dụng.

- Đòi lại đất có nhà ở khu vực đô thị trong quá trình cải tạo công thương nghiệp Nhà nước đã quản lý nhưng không làm đầy đủ thủ tục.

- Đòi lại đất tôn giáo đã hiến, cho, cho mươn hoặc cính quyền đã sử dụng làm nhà trẻ, trường học, mẫu giáo nhà văn hoá….

- Đòi đất cũ khi chiến tranh biên giới xảy ra, người có đất đI sơ tán sau quay lại đã có người sử dụng hoặc Nhà nước đã giao cho người khác sử dụng.

c. Tranh chấp quyền sử dụng đất:

- Tranh chấp đất hương hoả, dòng tộc, đòi chia thừa kế.

- Tranh chấp giữa đồng bào dân tộc ở địa phương với dân di cư.

- Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nhân dân ở các địa phương với các đơn vị được Nhà nước giao đất an ninh, quốc phòng và các nông, lâm trường.

- Tranh chấp đất giữa cá nhân với cá nhân, hộ gia đình về diện tích, ranh giới sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất.v.v..

d. Tố cáo cán bộ thực hiện sai quy định của Nhà nước về đất đai:

Các tố cáo chủ yếu tập trung vào các nội dung:

- Tố cáo việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi trong việc thu hồi đất, giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh doanh nhà ở; lợi dụng chính sách thu hồi đất của nông dân để chia cho cán bộ.

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao chiếm ruộng đất, lập trang trại; khai tăng diện tích, sai vị trí đất để tham ô.

- Tố cáo chính quyền đại phương ( chủ yếu là cấp xã ) giao đất trái thẩm quyền, giao đất không đúng diện tích được phê duyệt theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giao sai vị trí, diện tích, không đúng quy hoạch, thu tiền đất vượt nhiều lần so với quy định của Nhà nước, sử dụng tiền thu từ đất không đúng chế độ tài chính.

- Tố cáo chính quyền địa phương quản lý, sử dụng quỹ đất công ích (5%) sau mục đích, sai quy định của háp luật, cho thuê, đấu thầu lâu năm thu tiền chi tiêu riêng, để diện tích đất công ích vượt quá 5%.

- Ngoài ra,có nhiều đơn tố cáo cán bộ nhũng nhiễu, đòi hối lộ trong việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

     2. Tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai:

Nguyên nhân chủ yếu gây ra khiếu nại, tố cáo là do cơ chế, chính sách, pháp luật có nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tế; công tác quản lý nhà nước của chính quyền địa phương trên một số lĩnh vực còn buông lỏng, quá trình thực hiện nhiệm vụ pháp triển kinh tế - xã hội để xảy ra nhiều vi phạm, nhất là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, tạo nên sự bát bình trong dân.

Năm 2007, theo báo cáo của 26 Bộ, ngành và 64 tỉnh thành, trong tổng số 129.164 đơn khiếu nại, tố cáo có 110.072 đơn được gửi đến cơ quan đúng thẩm quyền (chiếm 85,2%). Trong đó, khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết  là 54.504 vụ (trên tổng số 65.372 vụ, chiếm 83,3%); tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết là 9701 đơn (trên tổng số 11.798 đơn, chiếm 82,2%); các kiến nghị, phản ánh khác có 28.804 vụ đúng thẩm quyền (trên tổng số 31.206 vụ, chiếm 92,3%). Phần lớn khiếu nại, tố cáo của nhân dân là có cơ sở, chỉ có trên dưới 30% khiếu nại, tố cáo sai hoàn toàn (còn lại là đúng hoặc có đúng có sai). Riêng Thanh tra Chính phủ đã xem xét, xác minh 83 vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp do Thủ tướng Chính phủ giao.

          Kết thúc năm 2007, tổng cộng các cơ quan hành chính – nhà nước đã tiếp 327.720 lượt người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, trong đó có 729 lượt đoàn đông người. Một số tỉnh, thành đơn vị có số lượng khiếu nại, tố cáo gia tăng đặc biệt là Bến Tre (tăng 293%), Bạc Liêu (tăng 198%),    Hà Tĩnh (tăng 67%), Nam Định (tăng 47%), Thái Nguyên (tăng 42,9%), Ngân hàng Nhà nước (tăng 37,3%), Bộ Nội vụ (tăng 34%), Bộ Quốc phòng (tăng 30%). Các cơ quan hành chính - nhà nước cũng đã tiếp nhận 229.109 đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh (88.228 đơn khiếu nại, 16.909 đơn tố cáo, 43.33 đơn thư kiến nghị, phản ánh). Trong số đó, có 20 tỉnh và 5 Bộ ngành đơn thư gia tăng (nổi bật là Bạc Liêu tăng 168%, Thái Nguyên tăng 63,4%, Hậu Giang tăng 56,6%, Thanh Hoá tăng 47,5%, Bộ Khoa học – Công nghệ tăng 192%, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tăng 32,5%); có 22 tỉnh và 2 Bộ số lượng đơn thư giảm so với năm trước (như Hà Tây giảm 45%, Lai Châu giảm 59,4%, Nam Định giảm 36,5%, Nghệ An giảm 24,8%, Hải Phòng 20,9%, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giảm 21,5%).

Tính đến năm 2007, trong số hơn 61.000 vụ việc đã có 80% số vụ được giải quyết, kiến nghị thu hối cho Nhà nước 24,7 tỷ dồng, 256 ha đất, trả lại cho tập thể, công dân 15,3 tỷ đồng, 176 ha đất, minh oan cho 299 người. Về vấn đề oan sai, tất cả các vụ oan đều xảy ra từ trước khi có nghị quyết 388 vì vậy những người gây oan hầu hết đã về hưu hoặc chuyển công tác khác và lúc đó thì trách nhiệm giữa cá nhân và từng tập thể lại không rõ. Thế nên xác định trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể lại không rõ. Thế nhưng không thể không xác định trách nhiệm gì cả. Tuy nhiên để làm việc này thì cần phải có quá trình.

Nổi lên trong tình hình khiếu nại, tố cáo phát sinh là việc khiếu nại xảy ra ở các địa phương tiến hành thu hồi đất của nhân dân để làm dự án phát triển kinh tế - xã hội. Hỗu như dự án nào cũng đều phát sinh khiếu nại. Nội dung tố cáo chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai chính sách, thiếu trách nhiệm trong việc giảI quyết khiếu kiện, có hành vi tiêu cực trong quản lý, sử dụng đất đai. Tính hình khiếu nại, tố cáo đông người được đánh giá là phức tạp, gay gắt hơn so với những năm trước.

Trụ sở tiếp dân của Trung ương Đảng và Nhà nước tại Hà Nội trong quý I năm 2008 đã tiếp nhận tổng cộng 622 vụ việc liên quan đến khiếu nại, tố cáo về đất đai (ngoài ra còn có 14 vụ việc khiếu kiên về nhà).

Đơn cử trường hợp 8 người dân ở xã Phù Lỗ (Sóc Sơn, Hà Nội) đến khiếu nại việc địa phương thu hồi đất nông nghiệp của các hộ để mở rộng quốc lộ 18 nhưng đền bù không đúng chính sách; gần 80 người khác thuộc xã Phú Sơn (Ba Vì, Hà Tây) cũng khiếu nại chuyện đền bù không thoả đáng khi địa phương thu hồi đất để xây dựng Trung tâm xã hội 07 (vụ việc này, Thanh tra Chính phủ đã cử đoàn xuống giải quyết nhưng chưa nhận được sự đồng ý từ phía người dân)

Về tố cáo, có hơn 10 người dân thuộc xã Minh Khai (Từ Liêm, Hà Nội) cũng hai lần đến trụ sở UB để tố cáo cán bộ xã, huyện có nhiều sai phạm trong quản lý sử dụng đất, thu hồi đất không đúng trình tự, đền bù không đúng chính sách, tham nhũng. Đơn tố cáo của người dân đã được chuyển đến Thanh tra Chính phủ.

Cũng trong Quý I năm 2008, mặc dù rơi vào thời điểm của dịp Tết Nguyên đán và Tháng Giêng âm lịch, song vẫn có nhiều đoàn khiếu kiện đông người kéo đến trụ sở tiếp dân của các cơ quan Nhà nước tại Hà Nội (cả cơ quan Trung ương và của thành phố). Trong đó, tỉnh Hà Tây có nhiều đoàn khiếu kiện đông người nhất: 16 đoàn, tiếp đến là Hà Nội với 10 đoàn, các tỉnh còn lại có đoàn khiếu kiện đông người là Hoà Bình, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nam, TP. Hồ Chí Minh, Hưng Yên. Đoàn khiếu kiện đông người nhất có 360 người thuộc xã Lai Vu (Kim Thành, Hải Dương). Nội dung khiếu nại chủ yếu của người dân vẫn liên quan đến việc đòi đền bù đất, ngoài ra còn về chính sách, tham nhũng, tài sản, thi hành án, kỷ luật Đảng và kỷ luật CBCC,...

    3. Nguyên nhân chủ yếu phát sinh khiếu nại, tố cáo, trang chấp về đất đai

+    Do hệ thông chính sách pháp luật về đất đai trong thời gian trước đây chưa hoàn chỉnh, chưa điều chỉnh hết được các quan hệ về đất đai, liên tục sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện. Từ chỗ pháp luật công nhận nhiều hình thức sở hữu đất đai chuyển sang quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, đến sau này quy định cho người sử dụng đất có đầy đủ các quyền, do vậy, việc nắm bắt kịp thời các quy định pháp luật của cán bộ và người dân hạn chế, việc hiểu các quy định pháp luật cũng không đầy đủ và quan niệm về chế độ sở hữu tư nhân về đất đai trong nhân dân vẫn còn tồn tại. Việc ban hành văn bản pháp luật về đất đai theo từng giai đoạn lịch sử, phát triển của đất nước nên thiếu đồng bộ và còn chồng chéo, thiếu công bằng, người hưởng chính sách sau được lợi hơn người hưởng chính sách trước ( có một số trường hợp những người chây ì, không chấp hành pháp luật được lợi hơn người chấp hành nghiêm pháp luật), từ đó dẫn đến so bì, khiếu kiện.

 -   Việc chưa điều chỉnh kịp thời giá đất để thónh bồi thường khi Nhà nước thực hiện dự án có liên quan đế nhiều tỉnh hoặc việc cho người có nhu cầu sử dụng đất phát triển các dự án tự thoả thuận bồi thường với người dân đang sử dụng đất, người được giao đất muốn giảI phóng mặt bằng nhanh đã chấp nhận giá bồi thường cao hơn quy định của Nhà nước làm cho mức đền bù chênh lệch trên cùng một khu vực, từ đó pháp sinh khiếu nại.

 -   Việc thực hiện các chủ trương, chính sách c ủa nhà nước trước đây ở một số nơi không nghiêm, chưa triệt để và chưa hợp lý, đã dẫn đến tình trạng xáo canh, cào bằng. Những năm 1980, HTX và TĐSX nông nghiệp được hình thành nhưng việc quản lý các HTX, TĐSX đã có những yếu kém dẫn đến tan rã, nhưng Nhà nước chưa có chính sách xử lýkịp thời, tình trạngtự phát lấy lại ruộng đất và biện pháp giảI quyết của các địa phương không thống nhất trong việc phân bổ lại đất đai khi các HTX, TĐSX tan rã, đã dẫn đến nhiều khiếu kiện.

 +   Công tác quản lý đất đai cũng còn nhiều bất cập, hồ sơ địa chính chưa được quan tâm đúng mức, chưa đầy đủ, không đủ cơ sở cho việc quản lý đất đai. Công tác quy hoặch sử dụng đất chậm, việc chỉnh lý biến động đất đai không được theo dõi, cập nhập thường xuyên dẫn đến việc tham mưu không đầy đủ, thiếu chính xác trong việc quy hoạch, thu hồi đất và giảI quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai.

 -    Việc thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ việc quy hoặch phát triển đô thị và các khu công nghiêpk nhiều nơI chưa cân nhắc, tính toán đồng bộ toàn diện dẫn đến trường hợp người dân bị thu hồi gần hết hoặc hết đất sản xuất, được đềm bù bằng tiền (không có đất khác để giao), giá trị thấp, việc chuyển dổi nghề nghiệp là rất khó khăn do trình độ hạn chế dẫn đén thất nghiệp, đời sống gặp nhiều khó khăn, phát sinh các tệ nạn xã hội và phát sonh ra khiếu kiện. Điển hình như trường hợp khiếu kiện dông người về dự án Cụm công nghiệp xã lai Vu, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương: thu hồi 200ha chiếm 80% đất nông nghiệp của toàn xã với tổng số tiền trên 1.000 hộ dân  tương ứng với 5.000 nhân khẩu ( trong độ tuổi lao động gần 2.600 người), hiện nay đất nông nghiệp vủa toàn xã chỉ còn trên 20ha, nhưng bước đầu dự án mới thu hút được 100 lao động đi đào tạo nghề và 35 lao động đI học nghề may, số còn laik người dân chưa có công ăn việc làm, trong khi đó họ chỉ là những lao động thuần nông.

-   Nguyên nhân từ việc quản lý thiếu chặt chẽ, còn sai sót của cơ quan nhà nước: đo đạc không chính xác diện tích, nhầm lẫn địa danh, thu hồi đất không có quyết định, không làm đầy đủ các thủ tục pháp lý, giao đất, cho thuê đất, đấy thầu đất, bồi thường giải toả và sử dụng những khoản tiền thu được không công khai gây ngờ vực cho nhân dân.

Việc giao đất tráI thẩm quyền, không đúng đối tượng, giao sai diện tích, vị trí, sử dụng tiền thu từ đất sai quy định của pháp luật hoặc người sử dụng đất đã làm đủ các nghĩa vụ theo quy định nhưng không được hợp thức quyền sử dụng đất, cập giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là những nguyên nhân tạo thành khiếu kiện đông người, thành các đoàn khiếu kiện đến các cơ quan Trung ương,

Khi phát sinh khiếu kiện, cấp uỷ, chính quyền nhiều nơi chưa tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời, còn né tránh, đùn đẩy hoặc cùng một cấp có nhiều quyết định nội dung giảI quyết khác nhau đối với một vụ việc, có những vụ việc tương tự như nhau nhưng kết quả giải quyết lại trái ngược nhau, do đó người dân nghi ngờ không tin tưởng vào cách giải quyết của chính quyền cấp đó gây khiếu kiện vượt cấp.

Các vụ việc đã được giải quyết nhưng việc tổ chức thực hiện chưa tốt, thiếu kiểm tra, đôn đốc kịp thời để khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc, làm phát sinh những quan hệ khiếu kiện mới phức tạp hơn. Một số địa phương sau khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có sai sót không được sửa đổi, bổ sung do đó gây tâm lýngờ vực về chính quyền địa phương giảI quyết không đúng chính sách pháp luật và người dân tiếp tục khiếu nại.

Một số cán bộ vì lợi ích kinh tế, tranh thủ trong thời gian đương chức đã cố tình vi phạm chính sách pháp luật đất đai để trục lợi.

+   Một số chủ dự án sau khi được giao đất, cho thuê đất đã sử dụng không đúng mục đúch, không theo dự án được duyệt, gây nên bất bình cho nhân dân làm phát sinh khiếu kiện.

 -    Nhiều vụ việc khiếu nại kéo dìa do giá trị đất cao, nên đòi được một mảnh đất thì có một khoản thu nhập rất lớn. Có một số trường hợp người dân mặc dù hiểu rõ các quy định của pháp luật song cố tình không thực hiện do không thoả mãn các yêu cầu cá nhân nên vẫn tiếp tục đI khiếu nại, có trường hợp lợi dụng để kích động, trục lợi….

-    Tình trạng lấn chiếm đất đai diễn ra phổ biến, việc chuyễn nhượng trao tay trong nhân dân không tuân theo quy định của pháp luật làm phát sinh các khiếu kiện khó giải quyết.

                                         

Chương III: Một số giải pháp nâng cao

chất lượng giải quyết Khiếu Nại, Tố Cáo

trong lĩnh vực đất đai

 

1. Những vấn đề chung:

Khi giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai phải quán triệt các nguyên tắc sau:

- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nứơc thống nhất quản lý; Nhà nước chỉ giao quyền sử dụng cho công dân; Nhà nước có quyền thu hồi đất và người sử dụng đất được đền bù theo quy định của pháp luật.

- Trong quá trình Cách mạng, theo tình hình cụ thể mà Đảng và Nhà nước có các chủ trương, chính sách đất đai phù hợp. Vì vậy giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo phải căn cứ vào thời điểm phát sinh của vụ việc và chính sách tương ứng của thời kỳ đó.

- Giải quyết các khiếu nại, tranh chấp đất đai trên cơ sở tôn trọng quá trình sử dụng ổn định  của các chủ sử dụng đất, không giũ rối, kiên quyết bảo vệ thành quả Cách mạng và lợi ích của người sử dụng đất, đồng thời phải tôn trọng quy hoạch sử dụng đất của chính quyền địa phương.

- Khi giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai nếu phát sinh những vấn đề về kinh tế, lợi ích vật chất ... cần phải đảm bảo lợi ích Nhà nước và quan tâm thích đáng lợi ích của người sử dụng đất .

2. Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai

Cơ chế giải quyết khiếu nại có liên quan đến đất đai hiện nay, theo Luật Đất đai quy định trường hợp quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định cuối cùng thì chấm dứt khiếu nại và Luật Khiếu nại, tố cáo quy định chỉ xem xét quyết định cuối cùng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Trong khi chất lượng các quyết định cuối cùng còn hạn chế; trong số gần 1.000 quyết định giải quyết của cấp tỉnh mà Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét vừa qua có khoảng gần 20% quyết định phải sửa đổi, bổ sung, có địa phương người khiếu đúng chiếm tỷ lệ hơn 30%, cá biệt có vụ ban hành đến bốn quyết định đều sai; 64 vụ việc của Thủ tướng Chính phủ giao Thanh tra Chính phủ phúc tra lại có đến 34 vụ việc phải sửa hoặc thay đổi quyết định. Do quy định không rõ ràng, nên để phát hiện được quyết định cuối cùng có dấu hiệu vi phạm pháp luật và để được xem xét quyết định đó theo quy định của pháp luật là một việc không dễ dàng. Vừa qua không ít trường hợp quyết định cuối cùng sai không được phát hiện và xử lý kịp thời, có trường hợp nhờ dân lên Trung ương "kêu oan" mới phát hiện được quyết định cuối cùng sai. Luật quy định quyết định cuối cùng có hiệu lực thi hành, có trường hợp khi phát hiện quyết định cuối cùng sai, thì việc đã rồi, như nhà bị đập, đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đã bán, thậm chí có người đã vào tù… Luật quy định Thủ tướng Chính phủ là người có thẩm quyền xem xét lại quyết định cuối cùng có dấu hiệu vi phạm pháp luật, do đó người khiếu nại lên Trung ương tìm Thủ tướng Chính phủ để khiếu nại quyết định cuối cùng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Theo thống kê hàng năm, có đến hàng chục nghìn đơn khiếu nại và hàng nghìn người khiếu nại xin được gặp Thủ tướng Chính phủ; Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan giúp Thủ tướng Chính phủ mất nhiều thời gian xử lý, không đủ sức đáp ứng yêu cầu, làm phức tạp tình hình. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình, gọi là "khiếu kiện vượt cấp" lên Trung ương. Vì thế giải quyết khiếu nại hành chính không có điểm dừng.

Việc mở rộng thẩm quyền để Toà án xét xử khiếu nại hành chính là đúng. Luật Đất đai năm 2003 tại Điều 138 quy định: Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết lần đầu, người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện ra Toà án hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý có quyền khởi kiện ra Toà án. Nhưng người khiếu nại chọn con đường tiếp khiếu đến cơ quan hành chính cấp trên hơn việc khởi kiện ra Toà án, vì ra Toà phải chịu án phí, đủ thủ tục và qua các cấp của Toà xét xử nếu có kháng án. Do đó, hầu hết người khiếu nại quyết định hành chính tiếp khiếu lên cơ quan hành chính có thẩm quyền của cấp trên, hết cấp tỉnh lên cấp Trung ương.

Tình hình trên đang đặt ra sự cần thiết phải đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai. Phải thể chế hoá đúng đường lối giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo có liên quan đến đất đai mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khoá IX đã nêu: "Việc giải quyết tranh chấp, trước hết cần tiến hành hoà giải, nếu hoà giải không thành thì đưa ra Toà án giải quyết. Nhà nước quy định thời hiệu và thời hạn giải quyết các khiếu nại không để kéo dài, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cấp giải quyết cuối cùng các khiếu nại về đất đai trong phạm vi thẩm quyền của các cấp ở địa phương; trường hợp các đương sự không nhất trí với quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì đưa ra Toà án giải quyết. Giải quyết tố cáo về đất đai thì theo pháp luật tố cáo".

Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương thì đề nghị đối với các quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, dù là quyết định giải quyết lần đầu hay cuối cùng, nếu người khiếu nại không đồng ý thì có quyền kiện ra Toà án giải quyết; bãi bỏ việc Thủ tướng Chính phủ xem xét giải quyết khiếu nại cuối cùng trong trường hợp có dấu hiệu vi phạm.

Với cơ chế giải quyết trên sẽ đảm bảo giải quyết được khách quan, người giải quyết độc lập với người ra quyết định hành chính, tránh được tình trạng "vừa đá bóng vừa thổi còi", nó càng mở rộng dân chủ hơn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trước pháp luật, người khiếu nại chịu trách nhiệm trước pháp luật khi thực thi quyền khiếu nại, đồng thời buộc cơ quan hành chính và cá nhân có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của chính mình mà phải nâng cao chất lượng khi ban hành các quyết định hành chính.

Việc nghiên cứu thiết lập một cơ chế nào để giải quyết bước tiếp theo trước khi chuyển sang Toà án cũng cần tham khảo thêm kinh nghiệm nước ngoài, xem nên tổ chức thế nào để vừa có hiệu lực, hiệu quả, vừa phù hợp với đặc điểm của nước ta.

Kinh nghiệm cho thấy, việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai thời gian qua hiệu quả nhất là hoà giải, không chỉ chú trọng hoà giải khi phát sinh tranh chấp, mà khi giải quyết khiếu nại tiếp tục hoà giải cũng đạt nhiều kết quả, và cả trong trường hợp Toà án xét xử có nơi hoà giải thành cũng đạt tỷ lệ cao; hoà giải thành càng nhiều càng tốt vì giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai ngoài việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo sự ổn định, còn phải tăng cường sự đoàn kết giữa Nhà nước với dân, trong nội bộ nông dân, giữa dân với dân và trong thân tộc…

Do đó, khi phát sinh khiếu nại quyết định hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cần có bước hoà giải tiếp theo, nhưng ở một trình độ tổ chức cao hơn. Hiện nay, trước mắt có thể dựa vào tổ chức ở địa phương đang có chức năng, nhiệm vụ phù hợp với việc hoà giải giữa người khiếu nại và người ban hành quyết định là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện chức năng giám sát việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại của Uỷ ban nhân dân, nếu Thường trực Hội đồng nhân dân chủ trì, có sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể, ban ngành hữu quan thì hiệu quả hoà giải sẽ rất tốt. Việc tiếp dân khiếu nại quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện cũng nên giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân chủ trì, để thực hiện việc hoà giải; trường hợp Uỷ ban nhân dân giải quyết sai thì yêu cầu xem xét lại; trường hợp giải quyết đúng thì có trách nhiệm giải thích và yêu cầu người khiếu nại thi hành quyết định, qua đó mà đưa rất ít vụ việc sang Toà án giải quyết. Mọi việc đều được giải quyết có hiệu quả ngay tại cơ sở và địa phương là phương án tối ưu trong tình hình hiện nay, có thể ta làm thử một số loại hình tổ chức hoà giải ở một số địa phương để rút kinh nghiệm, hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính đạt hiệu quả cao.

Đi đôi với đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai được đầy đủ, hệ thống và đồng bộ; rà soát những quy định chưa phù hợp hoặc những vấn đề mới phát sinh, để kịp thời sửa đổi, bổ sung, tháo gỡ các vướng mắc, chú ý các quy định và ngôn ngữ của luật, văn bản dưới luật phải được thể hiện hoặc giải thích đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, nhất là đối với các vấn đề có liên quan đến tranh chấp, khiếu nại; hướng dẫn để thống nhất nội dung giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai; và có tư vấn về pháp luật nhằm tạo cơ hội để mọi người tiếp cận với pháp luật đất đai hiểu biết, đồng thuận giữa người ra quyết định, người khiếu nại và người giải quyết khiếu nại.

Việc đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính có liên quan lĩnh vực đất đai, không những nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính, phù hợp với xu hướng cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong nước, mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế, trong tiến trình hội nhập của nước ta hiện nay.

Trên đây là những vấn đề đặt ra đối với công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại trên lĩnh vực đất đai hiện nay mà sinh viên xin đề xuất .

                         

 

Kết luận

 

          Khiếu nại tố cáo là quyền cơ bản của công dân được pháp luật nước ta ghi nhận và đảm bảo thực hiện. Nó cần được bổ sung, hoàn thiện hơn để phục vụ tốt hơn công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân nhất là trong thời kỳ đổi mới về mọi mặt. Kết quả thu thập và nghiên cứu thông tin đã giúp cho chuúng ta hiều rõ nhưng bất cấp còn tôn tại và tìm ra hướng giải quyết có ích cho công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.

           Đây là bản báo cáo về kết quả thực tập của em trong thời gian thực tập tại Thanh tra Chính phủ. Do chỉ đọc trong các tài liệu sẵn có nên không thể bao quát được toàn bộ mọi mặt của vấn đề nhưng nó đã giúp em hiểu thêm những kiến thức bổ ích về công việc thanh tra đầy phức tạp và chung ta đều có thể góp  sức xây dựng đất nước ta ngay càng giàu đẹp.

   

Xin chân thành cảm ơn!

                         

Mục lục

                                                                                                             Trang

Giới thiệu về chuyên đề                                               

Những nội dung chính                                                                                   

Chương I: Cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

1.     Khái niệm khiếu nại, tố cáo

A       Khái niệm khiếu nại

B        Khái niệm tố cáo

2.     Quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

2.1. Khiếu nại, tố cáo về đất đai

     2.2. Trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai  

3.     Chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Chính phủ trong giải quyết khiếu nại, tố cáo

Chương II: Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ở địa phương

1. Nội dung khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về đất đai

     2. Tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai

     3. Nguyên nhân chủ yếu phát sinh khiếu nại, tố cáo, trang chấp về đất đai  

Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

1.     Những vấn đề chung

2.  Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai

Kết luận

Mục lục 

Danh mục tài liệu tham khảo

       

Danh mục tài liệu tham khảo

 

1. Thanh tra Chính phủ, Quy trình, nghiệp vụ tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại hành chính, Nxb Hà Nội, H. 2007

2. Thanh tra Chính phủ, Báo cáo tổng kết công tác thanh tra năm 2007

3. Thanh tra Hà Nội, Báo cáo tổng kết công tác thanh tra năm 2007

4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nxb CAND, H. 2006

5. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật đất đai, Nxb Tư pháp,

H. 2006

6. http://www.forum.thanhtra.gov.vn trang web của thanh tra chính phủ

7. Tham luận tình hình giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực đất đai-Vũ Trọng Hiển thanh tra Sở Tài Nguyên & Môi trường  

8. Khiếu nại và tố cáo trong lĩnh vực đất đai:thực trang và giải pháp- Nguyễn Thị Minh thanh tra Sở NN & PTNT Tuyên Quang (04/05/2007)

 

 

Cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

Tác giả
Tạp chí
Năm xuất bản 0
Tham khảo

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.
Nếu bạn thấy văn bản này có dấu hiệu vi phạm, vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét và xử lý văn bản này trong thời gian sớm nhất.

VĂN BẢN CÙNG CHỦ ĐỀ