Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật Chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam

Tác giả Phạm Thanh Nga
Tạp chí Đại học Luật TP.HCM
Năm xuất bản 2015
Tham khảo
1. Lý do chọn đề tài
Với vai trò là một bộ phận quan trọng của tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên
rừng được xem là cái nôi nuôi dưỡng sự sống trên Trái Đất đồng thời là nguồn lực
phát triển kinh tế tài chính vững mạnh, góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh tổng
hợp cho một quốc gia. Tầm ảnh hưởng của tài nguyên rừng không chỉ đối với từng
cộng đồng, từng quốc gia riêng lẻ mà nó còn có ý nghĩa trên phạm vi toàn thế giới.
Để bảo vệ tốt nguồn tài nguyên này, Nhà nước Việt Nam đặc biệt chú trọng đến
việc xây dựng hệ thống pháp luật trong lĩnh vực lâm nghiệp nhằm thiết lập hệ thống
các cơ quan quản lý chuyên ngành từ trung ương đến địa phương - một trong những
công cụ hữu hiệu thay mặt Nhà nước thực thi các quy định của pháp luật vào thực tế
quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng. Và đề thực hiện thống nhất trên toàn quốc một
cơ chế quản lý, từ Hiến pháp 1980 trở đi, Nhà nước ta chỉ công nhận duy nhất một
chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng, đó là chế độ sở hữu toàn dân. Qua một quá
trình phát triển cho đến nay, chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng vẫn
khẳng định được tính tất yếu phù hợp của nó, đương nhiên, về mặt nội hàm phải có
ít nhiều thay đổi để thích ứng với tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội điển hình của
giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Lựa chọn nghiên cứu đề tài chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam,
tác giả mong muốn khẳng định lại một lần nữa về sự cần thiết của chế độ sở hữu
toàn dân đối với tài nguyên rừng với vai trò chủ đạo của hình thức sở hữu Nhà nước
trong khâu quản lý và bảo vệ rừng, cùng với đó là đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật về
sở hữu tài nguyên rừng ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế độ sở hữu toàn dân ở Việt Nam nói chung là một vấn đề thu hút được rất
nhiều sự chú ý của các nhà học giả, các nhà khoa học. Tuy nhiên, số lượng đề tài
nghiên cứu chuyên sâu về chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng nói riêng chưa
thực sự đáng chú ý. Qua tìm hiểu, có một số bài viết và công trình có đề cập trực
tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề sở hữu tài nguyên rừng ở Việt Nam đáng quan tâm
như sau:
 Trên các tạp chí khoa học:
 Hoàng Huy Tuấn (2013), "Sự phân quyền và quyền sở hữu trong quản lý tài
nguyên thiên nhiên: Tiếp cận lý thuyết và bối cảnh hóa trong quản lý rừng ở Việt
Nam", Tạp chí Khoa học lâm nghiệp, số 1/2013, tr.2657-2669.
 Vũ Long (2005), "Về quyền sở hữu rừng tự nhiên" đăng trên website của
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam.
2
 Nguyễn Đại Anh Tuấn – Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Thừa thiên
Huế (2014), "Xã hội hóa quản lý tài nguyên rừng – bài toán dang dở" đăng trên
website của Trung tâm Con người và Thiên nhiên.
 Báo cáo khoa học:
 Tô Xuân Phúc & Trần Hữu Nghị (2014), Giao đất giao rừng trong bối cảnh
tái cơ cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao,
Huế.
 Luận văn:
 Nguyễn Thị Thu Trang (2012), Phân quyền sở hữu tài sản trong giao rừng
cho cộng đồng ở Tây Nguyên, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, trường đại học Kinh tế
Tp.Hồ Chí Minh.
 Sách chuyên khảo:
 Nguyễn Thanh Huyền (2013), Pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên
rừng ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Các bài viết, đề tài nghiên cứu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu một phần nội
dung của cơ chế sở hữu tài nguyên rừng ở Việt Nam, chưa khái quát cụ thể chế độ
sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng cũng như cách thức vận hành quyền sở hữu
rừng với hai hình thức sở hữu theo quy định của pháp luật hiện hành. Chính vì vậy,
tác giả đã chọn nghiên cứu làm rõ về chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt
Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam nhằm làm sáng tỏ
bản chất của chế độ sở hữu toàn dân đối với với tài nguyên rừng đồng thời nghiên
cứu nội dung cách thức thực hiện quyền sở hữu rừng ở Việt Nam theo pháp luật về
bảo vệ và phát triển rừng từ đó đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về sở hữu rừng ở
nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu mà đề tài muốn hướng đến đó chính là chế độ sở
hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam, cụ thể hơn đó là các quy định pháp lý về
chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam với hai hình thức sở
hữu: sở hữu tư nhân và sở hữu Nhà nước.
 Phạm vi nghiên cứu
Tác giả tìm hiểu cơ chế sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam thông qua
việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành như Hiến pháp 2013, Luật
Bảo vệ và phát triển rừng 2004, Bộ luật dân sự 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
3
và các văn bản pháp luật của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
các ban ngành liên quan đến lĩnh vực lâm nghiệp…
Bên cạnh đó, để phục vụ cho công tác nghiên cứu, tác giả cũng tham khảo các
văn bản, tài liệu liên quan của nhiều tác giả, nhà nghiên cứu hoặc tổ chức khác có
công trình nghiên cứu hoặc báo cáo chuyên môn trong lĩnh vực lâm nghiệp về các
hình thức sở hữu rừng, công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tại Việt Nam.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp phân tích, tổng hợp và
phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
 Phương pháp phân tích, tổng hợp: đây là phương pháp được sử dụng xuyên
suốt đề tài nhằm tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về chế độ sở hữu cũng
như phương thức thực hiện quyền sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam, phân
tích cách thức thực hiện mô hình sở hữu đối với tài nguyên rừng từ đó chỉ ra các ưu
điểm và nhược điểm của pháp luật Việt Nam về quản lý và bảo vệ rừng.
 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: tác giả thu thập nhiều tài liệu trong và
ngoài nước từ sách tham khảo, mạng điện tử, tạp chí,… để nghiên cứu nhằm đưa ra
các cơ sở lý luận vững chắc, xác thực cho đề tài.
Ngoài ra, tác giả cũng kết hợp với nhiều phương pháp khác để đạt được hiệu
quả cao cho cho đề tài nghiên cứu như phương pháp so sánh, so sánh giữa quy định
về sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam với mô hình sở hữu tài nguyên rừng
của một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm hướng tới
hoàn thiện hơn chế độ sở hữu và phương thức quản lý và bảo vệ hiệu quả nguồn tài
nguyên này ở nước ta. Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch
sử duy vật Mac – Lênin để nghiên cứu cơ sở hình thành cũng như pháp luật về chế
độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam song song với việc kết hợp các
phương pháp nghiên cứu phân tích số liệu thực tế, xây dựng giả thuyết… để rút ra
kết luận nhằm làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Bên cạnh Phần mở đầu, Kết luận, Mục lục, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của đề tài được cấu trúc thành hai chương bao gồm:
Chương 1: Khái quát về chế độ sở hữu tài nguyên rừng ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng quyền sở hữu rừng ở Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TÀI NGUYÊN RỪNG
Ở VIỆT NAM
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm rừng và tài nguyên rừng
1.1.1.1 Khái niệm rừng
Theo tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quốc ( FAO):
Rừng là một khu vực đất đai có diện tích lớn hơn 0,5 ha với độ che phủ của
tán rừng trên 10%, độ cao trung bình tối thiểu của cây phải đạt 5m, rừng bao
gồm rừng tự nhiên và rừng trồng1.
Khái niệm này được kết hợp từ các yếu tố như mật độ cây, chiều cao của cây,
cách thức sử dụng đất rừng và chức năng sinh thái để đưa ra một khái niệm về rừng
thiên về liệt kê các đặc trưng của rừng để dễ dàng xác định một diện tích cây cối có
phải là rừng trên thực tế hay không.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 (Luật BVPTR)
của Việt Nam thì "Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động
vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ,
tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng
từ 0,1 trở lên.". Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì rừng được xác
định dựa theo ba tiêu chí2:
(1) Là một hệ sinh thái với thành phần chính là các cây lâu năm thân gỗ, cau
dừa, tre nứa có chiều cao trung bình từ 5m trở lên (trường hợp rừng mới
trồng hoặc rừng ngập mặn ven biển độ cao của cây được quy định thấp
hơn nhưng phải đảm bảo mật độ 1000 cây/ha trở lên), đủ khả năng cung
cấp lâm sản, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học.
(2) Độ tàn che của tán cây (độ che phủ của tán rừng) là thành phần chính của
rừng phải từ 0,1 trở lên. Độ che phủ của tán rừng được hiểu là mức độ
che kín của tán cây rừng đối với đất rừng, được biểu thị bằng tỷ lệ phần
mười giữa diện tích đất rừng bị tán cây rừng che bóng và diện tích đất
rừng3.
(3) Diện tích rừng liền khoảnh tối thiểu từ 0,5 ha trở lên hoặc là dải rừng có
chiều rộng tối thiểu 20 mét và có từ 3 hàng cây trở lên. Với những hệ
sinh thái nông nghiệp, diện tích nuôi trồng thủy sản có cây lâu năm là cây
1 http://www.fao.org/docrep/005/y4171e/y4171e10.htm, truy cập ngày 03/6/2015
2 Điều 3 thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ
NNPTNT) ngày 10/6/2009 quy định tiêu chí xác định và phân loại rừng (TT 34/2009/TT-BNNPTNT)
3 Khoản 2 Điều 3 Luật BVPTR
5
thân gỗ, tre nứa, cau dừa, khu vực có cây cối nhưng không thuộc một
trong hai trường hợp kể trên không được coi là rừng mà chỉ là cây phân
tán.
Bên cạnh những điểm tương đồng giữa khái niệm rừng của Việt Nam với khái
niệm rừng của FAO về quy định độ che phủ của tán rừng đều phải từ 0.1 (10%) trở
lên, độ cao trung bình của cây rừng hay diện tích tối thiểu một khu rừng phải đạt
được, pháp luật Việt Nam quy định cụ thể hơn về các yếu tố cấu thành rừng (thành
phần thực vật chính trong rừng là gì, mật độ cây bao nhiêu, diện tích đất là đất rừng
phải liền mảnh…) và bao quát hơn khi xác định những diện tích tuy không đảm bảo
điều kiện cơ bản về độ che phủ hay diện tích tối thiểu 0,5 ha nhưng là rừng vì xét
đến sự phát triển của chúng trong tương lai (rừng mới trồng, dải cây rừng), đặc
trưng sinh học của từng loài thực vật (ví dụ như rừng ngập mặn ven biển thường chỉ
có độ cao trung bình 3m). Khái niệm về rừng theo pháp luật Việt Nam không chỉ
đưa ra định nghĩa rõ ràng về rừng mà còn là cơ sở để phân biệt rừng với những diện
tích có thực vật khác, không phải rừng.
Về phân loại rừng, Luật BVPTR căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu để chia
rừng thành 3 loại: rừng phòng hộ (RPH), rừng đặc dụng (RĐD) và rừng sản xuất
(RSX). Đồng thời, kết hợp với nguồn gốc hình thành thì ba loại rừng này có thể là
rừng tự nhiên hoặc rừng trồng. Theo đó4:
 Rừng phòng hộ: là rừng được xây dựng và phát triển cho mục đích bảo vệ và
điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn đất, hạn chế thiên tai, điều hòa khí
hậu, bảo đảm cân bằng sinh thái và an ninh môi trường. RPH bao gồm 4 loại là
RPH đầu nguồn; RPH chắn gió, chắn cát bay; RPH chắn sóng, lấn biển; RPH bảo
vệ môi trường.
 Rừng đặc dụng: được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ
sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ
di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, phục vụ nghỉ ngơi du lịch, kết hợp
phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường. RĐD bao gồm: vườn quốc gia, khu bảo tồn
thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học.
 Rừng sản xuất: là rừng được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, các
lâm sản ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường. RSX bao gồm RSX là
rừng trồng, RSX là rừng tự nhiên và rừng giống.
Để phục vụ cho công tác điều tra, kiểm kê, thống kê rừng, quy họach bảo vệ và
phát triển rừng, quản lý tài nguyên rừng và xây dựng các chương trình, dự án lâm
nghiệp ngày 10/6/2009, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông (Bộ NNPTNT)
4 Điều 4 Luật BVPTR
6
đã ban hành Thông tư 34/2009/TT-BNNPTNT quy định tiêu chí xác định và phân
loại rừng (TT 34/2009/TT-BNNPTNT). Theo đó, ngoài tiêu chí mục đích sử dụng,
rừng còn có thể được phân loại căn cứ vào nguồn gốc hình thành, trữ lượng, loài
cây hoặc điều kiện lập địa5. Theo tiêu chí điều kiện lập địa, rừng ở nước ta bao gồm
rừng núi đất, rừng núi đá, rừng ngập nước, rừng trên đất cát. Theo tiêu chí loài cây
có rừng gỗ, rừng tre nứa, rừng cau dừa, rừng hỗn giao gỗ và tre nứa. Dựa vào trữ
lượng, phân biệt được đâu là rừng rất giàu, rừng giàu, rừng trung bình, rừng nghèo,
rừng chưa có trữ lượng. Nếu căn cứ vào nguồn gốc hình thành, rừng được chia làm
hai loại6:
 Rừng tự nhiên: là rừng có sẵn trong tự nhiên hoặc phục hồi bằng tái sinh tự
nhiên.
 Rừng trồng: là rừng được hình thành do con người trồng.
Theo số liệu thống kê được công bố gần đây nhất cho thấy7, tính đến hết năm
2013 Việt Nam có khoảng 13,95 triệu ha rừng. Trong đó, rừng tự nhiên chiếm
khoảng 10,4 triệu ha, còn lại là rừng trồng (3,55 triệu ha). Nếu phân theo chức năng,
khoảng 2,1 triệu ha là diện tích RĐD, khoảng 4,67 triệu ha là RPH và RSX chiếm
diện tích 7,18 triệu ha.Trong tổng số 10,4 triệu ha rừng tự nhiên, RPH và RĐD
chiếm 57,6%, còn lại (42,4%) là RSX. Đến nay, cả nước có khoảng 3,55 triệu ha
rừng trồng, trong đó diện tích rừng trồng là RSX khoảng 2,65 triệu ha (74,65%
trong tổng diện tích rừng trồng); phần còn lại (25,35%) là diện tích rừng trồng là
RPH và RĐD. Trong những năm gần đây, diện tích rừng trồng tăng tương đối
nhanh, với tốc độ khoảng 150.000 – 200.000 ha/năm8. Điều này là cơ sở để tăng trữ
lượng và chất lượng rừng trong tương lai cho nước ta.
Mặc dù có nhiều tiêu chí để phân chia rừng nhưng khi nghiên cứu về chế độ sở
hữu đối với tài nguyên rừng, chúng ta quan tâm tới các loại rừng được phân loại
căn cứ vào hai tiêu chí, đó là nguồn gốc hình thành và mục đích sử dụng. Bởi lẽ, các
hoạt động quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng của Nhà nước như xác lập các khu
rừng, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển rừng, giao rừng, cho thuê rừng đều dựa
trên kết quả phân loại rừng là RPH, RĐD hay RSX. Nhà nước quyết định giao rừng,
cho thuê rừng cho chủ thể phù hợp cũng căn cứ vào mục đích sử dụng của từng loại
rừng, hơn nữa là cơ sở để xem xét công nhận quyền sử dụng rừng và quyền sở hữu
RSX là rừng trồng. Ngoài ra, phân loại rừng thành RPH, RĐD, RSX sẽ thuận tiện
5 Chương II TT 34/2009/TT-BNNPTNT
6 Điều 5 TT 34/2009/TT-BNNPTNT
7 Quyết định 3322/QĐ-BNN-TCLN của Bộ trưởng Bộ NNPTNT ngày 28 tháng 7 năm 2014 công bố
hiện trạng rừng toàn quốc năm 2013 (QĐ 3322/QĐ-BNN-TCLN)
8 Tô Xuân Phúc & Trần Hữu nghị (2014), Báo cáo giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành
lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và cải thiện sinh kế vùng cao, Huế, tr.12
7
cho việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của từng loại chủ rừng đối với mỗi
loại rừng nhất định. Có thể thấy nguồn gốc hình thành và mục đích sử dụng của
từng loại rừng quyết định hình thức sở hữu đối với khu rừng đó có thể là hình thức
sở hữu nào và phương thức thực hiện các quyền sở hữu của chủ sở hữu rừng.
1.1.1.2 Khái niệm tài nguyên rừng
Tài nguyên rừng là một loại tài nguyên thiên nhiên hữu hạn có khả năng tái tạo
được bao gồm thực vật rừng, động vật rừng và những yếu tố tự nhiên có liên quan
đến rừng (cảnh quan rừng, vi sinh vật, thổ nhưỡng…)9.
Như đã đề cập, tài nguyên rừng được cấu thành từ nhiều thành phần tự nhiên vô
cùng phong phú, đa dạng. Trong đó có hàng triệu loài động vật, thực vật và vi sinh
vật, mà đời sống của chúng đều liên quan chặt chẽ với nhau, tạo thành quần xã đa
dạng sinh học. Không giống như không khí, gió hay năng lượng mặt trời là những
nguồn tài nguyên vô hạn, tài nguyên rừng có giới hạn nhất định về trữ lượng, sẽ
giảm dần cùng với hoạt động khai thác, sử dụng của con người. Tuy nhiên, rừng lại
là loại tài nguyên có thể tái tạo, phục hồi, thậm chí nâng cao chất lượng và trữ lượng
thông qua quá trình tái sinh tự nhiên hoặc do con người gây trồng lại nếu như nhận
được sự quản lý và bảo tồn hợp lý.
Như chúng ta đã biết, tài nguyên rừng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
cuộc sống con người. Trước hết, hệ sinh thái rừng cung cấp lâm sản (gỗ và lâm sản
ngoài gỗ) phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư trong xã hội; là
nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, các ngành xây dựng cơ
bản; cung cấp dược liệu quý phục vụ nhu cầu chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cho
con người; cung cấp lương thực, nguyên liệu chế biến thực phẩm.... Tài nguyên
rừng, đặc biệt là rừng, góp phần điều hòa dòng chảy, chống xói mòn rửa trôi thoái
hóa đất, chống bồi đắp sông ngòi, hồ đập, giảm thiểu lũ lụt, hạn chế hạn hán, giữ
gìn được nguồn thủy năng lớn cho các nhà máy thủy điện, làm sạch không khí, điều
hòa khí hậu. Ngoài ra, rừng còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa
học, đặc biệt là nơi dự trữ sinh quyển bảo tồn các nguồn gen quý hiếm. Như vậy, tài
nguyên rừng có giá trị to lớn với sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia, góp phần cân
bằng sinh thái và bảo vệ môi trường.
So với nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có diện
tích rừng lớn, xếp thứ 45 trên 192 quốc gia và vùng lãnh thổ10. Do đó, tiềm năng
khai thác và phát triển nguồn tài nguyên rừng ở nước ta là rất lớn. Sau các chiến
9 Nguyễn Thanh Huyền (2013), Pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, tr.14
10 Số liệu tính toán sử dụng thông tin từ The World Factbook 2011,
https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html, truy cập ngày 8/7/2015
8
lược phát triển lâm nghiệp qua các giai đoạn, hiện nay độ che phủ rừng đã đạt
40%11, trữ lượng gỗ - một trong các nguồn tài nguyên rừng quan trọng hàng đầu là
813,3 triệu m3 (rừng tự nhiên chiếm 94%, rừng trồng 6%) và khoảng 8,5 tỷ cây tre,
nứa. Trữ lượng gỗ bình quân của rừng tự nhiên là 76,5 m3/ha và rừng trồng là 40,6
m3/ha. Gỗ tập trung chủ yếu ở 3 vùng là Tây Nguyên chiếm 33,8%, Bắc Trung Bộ
23% và Nam Trung Bộ 17,4% tổng trữ lượng12. Về đa dạng sinh học của rừng, Việt
Nam được coi là một trong những nước thuộc vùng Đông nam Á giàu về đa dạng
sinh học với hệ thực vật rừng phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã thống kê
được 10.484 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 800 loài rêu và 600 loài nấm.
Theo dự đoán của các nhà thực vật học số loài thực vật bậc cao có mạch ít nhất sẽ
lên đến 12000 loài, trong đó có khoảng 2300 loài đã được người dân dùng làm
nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh
dầu và nhiều nguyên vật liệu khác. Cũng như thực vật, giới động vật rừng Việt Nam
không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho
vùng Đông Nam Á với 275 loài thú, 828 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái,
trong đó hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc hữu có
giá trị thực tiễn cao13.
1.1.2 Khái niệm chủ rừng
Chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng, cho thuê
rừng, giao đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng, công nhận quyền sử
dụng rừng, công nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; nhận
chuyển nhượng rừng từ chủ rừng khác14.
Theo quy định của pháp luật, chủ rừng bao gồm 7 nhóm đối tượng, đó là15:
 Ban quản lý RPH, Ban quản lý RĐD
 Hộ gia đình, cá nhân trong nước
 Tổ chức kinh tế
 Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam
 Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam
 Đơn vị vũ trang nhân dân
 Tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đào tạo, dạy nghề về
lâm nghiệp.
11 QĐ 3322/QĐ-BNN-TCLN
12 Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt Chiến lược
phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 (QĐ 18/2007/QĐ-TTg )
13 Phùng Mỹ Trung, "Bạn biết gì về đa dạng sinh học của rừng Việt Nam?",
http://www.vncreatures.net/event06.php, truy cập ngày 8/7/2015
14 Khoản 4 Điều 3 Luật BVPTR
15 Điều 5 Luật BVPTR
9
Có thể thấy Nhà nước khuyến khích các tổ chức kinh tế, hộ gia đình và cá nhân
tiếp cận khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên rừng khi quy định các nhóm chủ
rừng bao gồm nhiều thành phần trong xã hội, không hạn chế chủ rừng trong nước
hay nước ngoài và không quy định các cơ quan quản lý Nhà nước là một trong
những đối tượng chủ rừng.
Về nguyên tắc, Nhà nước (đại diện cho toàn dân) sẽ đóng vai trò là chủ sở hữu
tuyệt đối đối với rừng. Bên cạnh đó còn có các đối tượng được Nhà nước công nhận
quyền sở hữu đối với RSX là rừng trồng – chủ sở hữu tương đối đối với rừng. Theo
đó, khái niệm “chủ rừng” quy định tại Điều 3 Luật BVPRT bao gồm cả hai đối
tượng là người có quyền sở hữu tương đối đối với RSX là rừng trồng và người
không có quyền sở hữu rừng mà chỉ được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, giao
đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
rừng từ chủ rừng khác. Như vậy khái niệm “chủ rừng” và “chủ sở hữu rừng” không
đồng nhất với nhau.
Mỗi loại chủ rừng có những đặc điểm riêng, quyền lợi và nghĩa vụ riêng phụ
thuộc vào loại rừng mà họ được giao hoặc được thuê theo quy định của Luật
BVPTR. Điều kiện để trở thành chủ rừng đối với mỗi loại đối tượng chủ thể cũng
có nhiều điểm không giống nhau nhưng trước hết họ phải thuộc một trong các nhóm
đối tượng được nêu như trên (trừ Ban quản lý RPH, RĐD được thành lập sau khi
giao RPH, RĐD); tiếp theo họ phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét,
cấp quyết định giao rừng, cho thuê rừng, giao đất, cho thuê đất để trồng rừng căn cứ
trên dự án đầu tư về lâm nghiệp được phê duyệt theo pháp luật về đầu tư (đối với tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài), khu vực sinh
sống tại địa phương có rừng (thường áp dụng đối với hộ gia đình, cá nhân) hoặc nhu
cầu sử dụng vào mục đích kinh doanh (đối với tổ chức kinh tế), nghiên cứu (đối với
tổ chức nghiên cứu khoa học), lí do an ninh – quốc phòng (đối với đơn vị vũ trang
nhân dân). Khi hoàn thành các thủ tục cần thiết họ sẽ trở thành chủ rừng và được
công nhận quyền sử dụng rừng hoặc quyền sở hữu RSX là rừng trồng.
1.2 Cơ sở xác lập chế độ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam
1.2.1 Cơ sở lý luận
Rừng là tài nguyên quý báu của mỗi quốc gia nói riêng và của thế giới nói
chung, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, có giá trị to lớn, đặc biệt đối
với nền kinh tế. Rừng chứa đựng ít nhất 80% đa dạng sinh học của thế giới, đóng
góp vào đời sống của hơn 1,6 tỷ người. Rừng và các lâm sản từ rừng là một nguồn
tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm chính thức và không chính thức cho
khoảng 50 triệu người. Giá trị sản phẩm rừng được giao dịch trên toàn cầu đạt 270
10
tỷ đôla Mỹ. Trong số đó, rừng của các nước đang phát triển chiếm trên 20%

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.
Nếu bạn thấy văn bản này có dấu hiệu vi phạm, vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét và xử lý văn bản này trong thời gian sớm nhất.

VĂN BẢN CÙNG CHỦ ĐỀ