Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.
Nhận thức chung đốI với Tội pham về môi trường  và một số vấn đề liên quan

 

NHẬN THỨC CHUNG ĐỐI VỚI TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

 

TRẦN LÊ HỒNG

Tiến sĩ, Giảng viên khoa Luật Trường ĐH An Ninh

 

1. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG

Bảo vệ môi trường được nhận thức từ rất lâu trên thế giới, song vấn đề này được tập trung giải quyết cả ở tầm quốc gia và quốc tế chủ yếu trong nửa sau thế kỷ XX. Những hậu quả của việc tàn phá môi trường ảnh hưởng nghiêm trọng đến tự nhiên, xã hội và con người, đặc biệt phải kể đến nạn sa mạc hóa; ô nhiễm đất, nước và không khí; hiệu ứng nhà kính v.vẹấu tranh với những hành vi tàn phá môi trường chưa thu được hiệu quả cao, cùng với tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn. Trong giới hạn của quốc gia, một trong những mắt xích chủ yếu của cơ chế này là chính sách hình sự đối với những hành vi xâm hại môi trường.

Phần lớn các nước trên thế giới đều có những quy định cụ thể đối với tội phạm về môi trường. Nhiều nước thể hiện quyết tâm đấu tranh với loại tội phạm này thông qua những hình phạt hết sức nghiêm khắc. Cộng hòa các tiểu Vương quốc Ả Rập, khi coi bảo vệ môi trường là yếu tố chung của quốc gia cho sự phát triển thịnh vượng của đất nước, mới thông qua Bộ luật về bảo vệ môi trường với hơn 100 điều quy định cụ thể các hình phạt đối với hành vi làm ô nhiễm nguồn nước, đất, gây thiệt hại cho khu bảo tồn. Đặc biệt, hình phạt cao nhất đối với tội phạm về môi trường đặc biệt nghiêm trọng là tử hình.

Chính sách hình sự của Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường có sự đột phá quan trọng với việc xây dựng một chương riêng trong Bộ luật Hình sự năm 1999 cho các tội phạm về môi trường (Chương XVII).

Trong BLHS năm 1985 chưa thể hiện rõ tính cấp bách và tầm quan trọng đặc biệt của việc đấu tranh với các hành vi xâm hại môi trường. Điều này không chỉ thể hiện qua việc BLHS 1985 chưa dành riêng một Chương cho các tội phạm về môi trường, mà còn dễ dàng nhận thấy qua việc một số tội phạm về môi trường được gộp lại với những tội phạm khác và được hiểu không phải với tư cách là những tội phạm về môi trường. “Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác và bảo vệ tài nguyên trong lòng đất, trong các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam (Đ.179)”, “tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai (Đ.180)”, “tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng (Đ.181)” trong BLHS 1985 được hiểu là những tội phạm kinh tế và xếp vào Chương VII “Các tội phạm về kinh tế”. Tương tự như vậy, tội vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng danh lam, thắng cảnh (Đ.216) được hiểu là tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (Mục C Chương VIII). Cả BLHS 1985 chỉ có một điều duy nhất trực tiếp quy định trách nhiệm hình sự cho những hành vi xâm hại đến môi trường. Đó là Đ.195 “tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng”.

Nền tảng của chính sách hình sự về bảo vệ môi trường của Việt Nam đã được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp đã khẳng định việc bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng của mọi người và toàn xã hội: “Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường” (Đ.29).

Chính sách hình sự về bảo vệ môi trường của Việt Nam được cụ thể hóa thông qua việc xây dựng những tội phạm về môi trường cụ thể. Chương XVII BLHS 1999 quy định đối với 10 tội phạm về môi trường: tội gây ô nhiễm không khí (Đ.182), tội gây ô nhiễm nguồn nước (Đ.183), tội gây ô nhiễm đất (Đ.184), tội nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường (Đ.185), tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Đ.186), tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật (Đ.187), tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Đ.188), tội huỷ hoại rừng (Đ.189), tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (Đ.190), tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn thiên nhiên (Đ.191).

Những hành vi cấu thành tội phạm quy định trong Chương XVII BLHS là những hành vi xâm hại đến môi trường có tính nguy hiểm xã hội cao. Điều này có nghĩa là, không phải tất cả những hành vi xâm hại đến môi trường đều được quy định trong BLHS. Những hành vi có tính nguy hiểm xã hội thấp hơn, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác như áp dụng trách nhiệm hành chính hay thông qua tuyên truyền, giáo dục. Với diễn biến phức tạp của đời sống xã hội, những hành vi xâm hại đến môi trường sẽ được nghiên cứu thường xuyên giúp cho quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường.

BLHS không đưa ra khái niệm chung của tội phạm về môi trường. Phân tích khoa học khái niệm này là khởi điểm cho việc giải quyết về bản chất tất cả các vấn đề của trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Việc hiểu đúng đắn tội phạm về môi trường là cơ sở phương pháp luận cho quá trình lập pháp đối với loại tội phạm này. Trong trường hợp không có sự nhận thức đúng đắn về những tội phạm này sẽ không thể xây dựng được các hình thức chế tài, phạm vi và nhiệm vụ của hoạt động phòng ngừa.

Trong các tài liệu nghiên cứu có một số khái niệm tội phạm về môi trường, song vẫn còn có những điểm chưa hoàn toàn rõ ràng hoặc đầy đủ. Một số tác giả cho rằng: “Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm hại đến sự bền vững và ổn định của môi trường; xâm hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi trường, gây ra những hậu quả xấu đối với môi trường sinh thái”(1). Trong khái niệm này có hai điểm chưa được rõ ràng:

- Thứ nhất, khái niệm trên chưa chỉ ra một đặc trưng hết sức quan trọng của tội phạm nói chung, tội phạm về môi trường nói riêng, mà được tất cả các nhà luật học công nhận: “tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật hình sự”. Cũng chính vì lý do này nên khái niệm sẽ chưa hoàn toàn chính xác. Không có ai nghi ngờ “Hành vi nguy hiểm cho xã hội” là đặc trưng chung của các hành vi vi phạm pháp luật như: vi phạm hành chính, tội phạm, vi phạm kỷ luật .v.v., vậy khái niệm nêu trên có thể bao gồm cả những hành vi vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực môi trường.

- Thứ hai, khái niệm trên có thể gây sự hiểu nhầm giữa đối tượng và khách thể của tội phạm. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội và lợi ích xã hội bị xâm hại và được chỉ ra rất rõ ràng trong Đ.1 BLHS 1999: “Chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Đối tượng của tội phạm là những vật của thế giới khách quan mà hành vi phạm tội trực tiếp tác động đến. Trên cơ sở phân tích này, có thể khẳng định “sự bền vững và ổn định của môi trường” là đối tượng chung của các tội phạm về môi trường và việc đưa đối tượng này vào khái niệm là chưa hoàn toàn xác đáng vì có thể dẫn tới đồng nhất với khách thể “các quan hệ xã hội về quản lý và bảo vệ môi trường”.

Khái niệm tội phạm về môi trường cũng đã được đưa vào giáo trình giảng dạy. Giáo trình của trường ĐH Luật Hà Nội cho rằng: “Các tội phạm về môi trường là các hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy định của Nhà nước về môi trường, qua đó gây thiệt hại cho môi trường”(2). Khái niệm này có ưu điểm là rất ngắn gọn, tuy nhiên cũng còn có vài điểm cần bàn thêm:

- Cũng giống như ở khái niệm trước, khái niệm tội phạm về môi trường trong giáo trình Luật Hình sự của trường ĐH Luật Hà Nội chưa tạo ra được sự khác biệt giữa tội phạm về môi trường và hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường. Có thể khẳng định rằng: hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường cũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy định của Nhà nước về môi trường và có khả năng gây hậu quả bất lợi cho môi trường.

- Việc đưa “thiệt hại cho môi trường” vào trong khái niệm tội phạm về môi trường có thể dẫn tới sự hiểu lầm. Yếu tố “thiệt hại” trong cấu thành tội phạm chỉ bắt buộc đối với những cấu thành tội phạm vật chất. Những cấu thành hình thức khẳng định việc tội phạm đã được thực hiện (hoàn thành) ngay khi đã thực hiện hành vi, bất kể hành vi đó đã gây ra thiệt hại hay chưa. Như vậy, sử dụng cấu trúc “gây thiệt hại cho môi trường” trong khái niệm có thể dẫn tới sự hiểu nhầm rằng: “tất cả tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất”. Trên thực tế không phải như vậy, một số tội phạm về môi trường có cấu thành hình thức như: Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho ngư­ời (Đ.186), Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (Đ.190).

- Ngoài ra, khái niệm kể trên chưa chỉ rõ khách thể bị xâm hại. Có thể nói rằng, một trong những đặc trưng cơ bản nhất của tội phạm cụ thể chính là khách thể giúp phân biệt với các tội phạm khác. Ngay khái niệm chung về tội phạm tại Đ.8 BLHS Việt Nam cũng liệt kê những khách thể mà tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam xâm hại đến. Trong quá trình xây dựng khái niệm một loại tội phạm cụ thể, để đặc trưng loại tội phạm này, đồng thời xác định giới hạn, cần chỉ rõ khách thể chính.

Việc xây dựng khái niệm tội phạm về môi trường phức tạp còn do cấu trúc của chế định pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường không trùng khớp với hình thức biểu hiện trong BLHS. Hệ thống các tội phạm về môi trường theo nghĩa thuần tuý trong BLHS không hề tồn tại. Nhận định này được minh chứng bằng việc những tội phạm khác, tuy không nằm trong chương tội phạm về môi trường, nhưng một phần cũng hướng tới việc sử dụng hợp lý và bảo vệ môi trường. Ví dụ như: Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (Đ.172), Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Đ.173), Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Đ.174), Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Đ.175), Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (Đ.176), được đưa vào Chương XVI “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”. Tuy nhiên, việc sắp xếp như nêu trên trong BLHS về cơ bản cũng hợp lý vì khách thể chính của các tội phạm (từ Đ.172 đến Đ.176) là các quan hệ trong lĩnh vực quản lý kinh tế của Nhà nước.

Tình trạng khó có thể đưa tất cả các tội phạm có sự xâm hại đến môi trường vào một Chương trong BLHS không phải chỉ đối với Việt Nam. Nghiên cứu pháp luật hình sự của các nước khác cũng có tình trạng tương tự. Trước thực trạng này và sự thiếu vắng một khái niệm thống nhất của tội phạm về môi trường trong pháp luật hình sự, nhiều tác giả nước ngoài thậm chí đã mở quá rộng khái niệm tội phạm về môi trường. Điển hình là một số tác giả người Nga cho rằng tội phạm về môi trường bao gồm tất cả các tội phạm có quan hệ với những bộ phận của môi trường thiên nhiên(3). Với cách hiểu rộng như vậy, khả năng toàn bộ hoạt động tội phạm, bằng cách này hay cách khác, có thể coi là có sự xâm hại tới môi trường, hay nói một cách ngắn gọn: tội phạm về môi trường bao hàm hầu như tất cả các tội phạm cụ thể.

Trên cơ sở phân tích ở trên, chúng tôi cũng mạnh dạn đưa quan điểm đối với khái niệm tội phạm về môi trường như sau: “Tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS Việt Nam, xâm hại tới các quan hệ xã hội về giữ gìn môi trường trong sạch, sử dụng hợp lý những tài nguyên của nó và đảm bảo an toàn môi trường cho dân cư”. Khái niệm này không chỉ đặc trưng cho những tội phạm về môi trường được quy định trong Chương XVII BLHS Việt Nam, mà nó rộng hơn nhằm thể hiện được chính sách hình sự của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Có thể coi đây là khái niệm tội phạm về môi trường theo nghĩa rộng, còn khái niệm tương ứng theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Chương XVII “Các tội phạm về môi trường”. Trong các phần tiếp theo sẽ chỉ đề cập đến các tội phạm về môi trường theo nghĩa hẹp, tức các tội phạm trong chương XVII BLHS Việt Nam.

2. CẤU THÀNH CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG

Khái niệm chung của tội phạm về môi trường nêu trong phần 1 giúp chúng ta xác định phạm vi của loại tội phạm này, cũng như là cơ sở cho việc xây dựng các tội phạm cụ thể. Để hiểu các tội phạm về môi trường rõ ràng và cụ thể hơn, đặc biệt nhằm áp dụng chính xác các quy định tương ứng của BLHS trong cuộc sống, đòi hỏi phải nghiên cứu cấu thành tội phạm thể hiện qua: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan.

a. Khách thể của tội phạm về môi trường

Khách thể của loại tội phạm về môi trường là những quan hệ xã hội về giữ gìn môi trường trong sạch, sử dụng hợp lý những tài nguyên của nó và đảm bảo an toàn môi trường cho dân cư.

Để hiểu khách thể của tội phạm về môi trường cần làm rõ khái niệm “môi trường”. Khái niệm này được đưa ra trong Luật Bảo vệ môi trường, theo đó “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên” (K.1 Đ.1). Đặc biệt, Luật không chỉ xây dựng khái niệm về môi trường, mà còn chỉ rõ những bộ phận cấu thành của môi trường. “Thành phần môi trường là các yếu tố tạo thành môi trường: không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác” (K.1 Đ.2).

Nội dung của các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm về môi trường không giới hạn trong một lĩnh vực nào, như trong hoạt động kinh tế chẳng hạn. Hậu quả của những hành vi xâm hại môi trường gây ra không chỉ đối với hoạt động kinh tế, mà đối với toàn bộ cuộc sống trên trái đất.

Trên cơ sở phân tích khách thể của loại tội phạm này, khách thể trực tiếp trong từng tội phạm là những quan hệ xã hội cụ thể về bảo vệ và sử dụng hợp lý những bộ phận cấu thành của môi trường, cũng như đảm bảo an toàn môi trường cho dân cư. Ví dụ, khách thể của tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản là các quan hệ xã hội về bảo vệ và sử dụng hợp lý những nguồn lợi thuỷ sản, tức các quan hệ về bảo vệ và sử dụng hợp lý sông, hồ, biển.

Đối tượng của tội phạm về môi trường chính là đối tượng của các hành vi xâm hại đến môi trường. Đó là những bộ phận cấu thành của môi trường mà đã được liệt kê trong K.1 Đ.2 Luật Bảo vệ môi trường. Những bộ phận này hình thành và tồn tại một cách tự nhiên, hoặc có sự kết tinh của lao động con người nhưng vẫn tồn tại trong thiên nhiên hoặc được đưa vào thiên nhiên để thực hiện chức năng sinh vật và những chức năng tự nhiên khác. Chính bởi bản chất gắn với tự nhiên nên những thành phần cấu thành môi trường có thể phân biệt được với những đối tượng tội phạm khác mà thường được biết dưới dạng “hàng hoá” hay “tài sản”.

b. Mặt khách quan của tội phạm về môi trường

* Các tội phạm về môi trường có thể được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động vi phạm các quy định của pháp luật về sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn và bảo vệ môi trường. Các hành vi tội phạm về môi trường rất đa dạng: gây ô nhiễm môi trường, huỷ hoại tài nguyên môi trường, không thực hiện quy tắc bảo vệ môi trường, gây dịch bệnh v.v. Những hành vi trong mặt khách quan của tội phạm về môi trường là sự thể chế hoá trong lĩnh vực hình sự những hành vi bị nghiêm cấm quy định trong Luật Bảo vệ môi trường:

1- Đốt phá rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa bãi gây huỷ hoại môi trường, làm mất cân bằng sinh thái;

2- Thải khói, bụi, khí độc, mùi hôi thối gây hại vào không khí; phát bức xạ, phóng xạ quá giới hạn cho phép vào môi trường xung quanh;

3- Thải dầu mỡ, hoá chất độc hại, chất phóng xạ quá giới hạn cho phép, các chất thải, xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn độc hại và gây dịch bệnh vào nguồn nước;

4- Chôn vùi, thải vào đất các chất độc hại quá giới hạn cho phép;

5- Khai thác, kinh doanh các loại thực vật, động vật quý, hiếm trong danh mục quy định của Chính phủ;

6- Nhập khẩu công nghệ, thiết bị không đáp ứng tiêu chuẩn môi trường; nhập khẩu, xuất khẩu chất thải;

7 - Sử dụng các phương pháp, phương tiện, công cụ huỷ diệt hàng loạt trong khai thác, đánh bắt các nguồn động vật, thực vật. (Đ.29)

Đặc trưng của các tội phạm về môi trường quy định trong BLHS là thường sử dụng kết cấu dẫn chiếu. Để xác định việc thực hiện tội phạm về môi trường thường phải căn cứ vào việc xác định các hành vi vi phạm các quy tắc về sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, trong đó các quy tắc này được quy định trong những văn bản chuyên ngành khác. Ví dụ, muốn khẳng định hành vi gây ô nhiễm không khí theo Đ.182, thì cần căn cứ trên cơ sở giới hạn tối đa được phép thải vào không khí các chất độc, khói, bụi v.v. Giới hạn này được quy định cụ thể trong tiêu chuẩn Việt Nam do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành (TCVN 5939-1995). Vì vậy, để có thể áp dụng chính xác BLHS đối với các tội phạm về môi trường cần phải vận dụng chính xác các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, trong đó cần đặc biệt lưu ý một số văn bản quan trọng như:

- Luật bảo vệ môi trường ngày (27-12-1993);

- Luật bảo vệ và phát triển rừng (12-8-1991);

- Luật tài nguyên nước (20-5-1998);

- Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản (25-4-1989);

- Nghị định số 18-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng Quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ (17-2-1992);

- Nghị định số 175-CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường (18-10-1994);

- Quyết định số 2920-QĐ/MTg của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường (21-12-1996);

- Quyết định số 2019/1997/QĐ-BKHCNMT của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành quy định những yêu cầu chung về kỹ thuật đối với việc nhập khẩu các thiết bị đã qua sử dụng (1-12-1997);

- Quyết định số 10/2001/QĐ-BKHCNMT của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc ban hành tạm thời Danh mục các loại phế liệu đã được xử lý thành nguyên liệu được phép nhập khẩu (11-5-2001);

* Tuyệt đại bộ phận tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất (9 trong số 10 tội: Đ.182, Đ.183, Đ.184, Đ.185, Đ.186, Đ.187, Đ.188, Đ.189, Đ.191). Để khẳng định tội phạm hoàn thành cần chứng minh được những hành vi vi phạm gây hậu quả cụ thể. Trong diễn biến xâm hại môi trường phức tạp và phổ biến hiện nay, việc xây dựng các tội phạm về môi trường với cấu thành vật chất chưa phát huy hết được vai trò của mình đối với việc gìn giữ và bảo vệ môi trường. Những hành vi tàn phá, huỷ hoại môi trường sống cần được ngăn chặn ngay từ đầu và có những biện pháp chế tài kiên quyết. Đây là một trong số những điều kiện cơ bản để giữ vững sự tăng trưởng ổn định về mặt kinh tế, đảm bảo chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện. Việc nghiên cứu và sửa đổi các quy định của BLHS về bảo vệ môi trường thông qua việc xử lý ngay từ khi thực hiện các hành vi vi phạm là hết sức cần thiết. Căn cứ để xử lý hình sự các hành vi này không dựa vào đánh giá hậu quả mà có thể bằng việc xác định quy mô vi phạm. Nói một cách ngắn gọn: nên thay đổi tính chất của cấu thành các tội phạm về môi trường sang cấu thành hình thức là chủ yếu.

Hậu quả trong các tội phạm về môi trường được quy định trong các cấu thành cơ bản là “hậu quả nghiêm trọng”. Ngoài ra trong một số cấu thành với tình tiết tăng nặng sử dụng thuật ngữ “hậu quả rất nghiêm trọng” hoặc “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Đây là những tiêu chí mang tính chất tương đối, rất khó xác định chính xác vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: tính chất của hành vi, quy mô của hành vi, thiệt hại vật chất, khả năng khắc phục những thiệt hại cho môi trường, v.v… Đặc biệt trong lĩnh vực môi trường việc đánh giá mức độ của thiệt hại có những đặc thù riêng. Thật không hợp lý nếu chỉ đơn giản áp dụng những quy định của pháp luật xác định tính chất nghiêm trọng, mà được áp dụng cho các tội phạm khác như xâm phạm tài sản riêng công dân, cho các tội phạm về môi trường. Để có thể áp dụng chính xác các quy định của BLHS đối với các tội phạm về môi trường, cần có một sự hướng dẫn riêng cụ thể từ phía các cơ quan chức năng của Nhà nước, nhất là Tòa án Nhân dân Tối cao, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, đối với các loại “hậu quả” quy định trong chương này.

Xác định các hành vi phạm tội về môi trường cũng cần chỉ rõ mối quan hệ nhân quả giữa các hành vi vi phạm với những hậu quả xảy ra. Những thiệt hại về môi trường phải phát sinh trực tiếp và chủ yếu từ chính các hành vi vi phạm.

Trên cơ sở xác định hậu quả của các hành vi vi phạm, có thể xác định tính chất hoàn thành của tội phạm. Những tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất được coi là hoàn thành kể từ khi có những hậu quả tương ứng xảy ra.

* Tội phạm về môi trường với cấu thành hình thức. Đó là tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (Đ.190). Để xác định tội phạm đã hoàn thành, không cần thiết phải có hậu quả xảy ra. Thời điểm hoàn thành tội phạm được tính từ thời điểm thực hiện hành vi liệt kê tại Đ.190 như: đưa ra khỏi vùng dịch bệnh động vật có khả năng truyền dịch bệnh cho người; săn bắn động vật hoang dã v.v.

* Cấu thành của phần lớn các tội phạm về môi trường đòi hỏi phải có dấu hiệu bắt buộc về việc đã bị xử phạt hành chính (Đ.182, Đ.183, Đ.184, Đ.185, Đ.187, Đ.188, Đ.189, Đ.191). Việc quy định dấu hiệu đã bị xử phạt vi phạm hành chính trong các tội phạm về môi trường có một số vấn đề và nội dung cần lưu ý sau:

- Việc quy định dấu hiệu này trong các cấu thành tội phạm về môi trường nhằm tăng cường trách nhiệm của các cá nhân đối với việc bảo vệ môi trường. Hành vi vi phạm của những người đã bị xử phạt hành chính chứng tỏ tính hệ thống của sự vi phạm, sự kiên cố của người vi phạm đối với những hành vi xâm hại môi trường, cũng như ý thức không tốt về việc bảo vệ môi trường. Điều này nói lên tính nguy hiểm xã hội cao hơn, và vì vậy những người đã bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường cần thiết phải bị xử lý một cách kiên quyết thông qua các chế tài hình sự, kể cả trường hợp hành vi vi phạm lặp lại chưa dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như quy định trong BLHS, đối với tất cả các tội phạm về môi trường (hiện nay mới hạn chế chỉ ở một số tội (Đ.187, Đ.188, Đ.189)).

- Quy định bắt buộc dấu hiệu đã bị xử lý phạt hành chính trong cấu thành cơ bản của nhiều tội phạm về môi trường và không có trường hợp ngoại lệ dẫn đến tồn tại những trường hợp không hợp lý cả về mặt lý luận lẫn thực tế. Đó là các điều: 182, 183, 184, 185. Nếu hành vi vi phạm thực hiện lần đầu nhưng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì không bị truy tố trách nhiệm hình sự vì chưa bị xử phạt hành chính lần nào. Không khó khăn để khẳng định tính nguy hiểm xã hội đặc biệt cao trong các trường hợp nêu trên để cần thiết áp dụng trách nhiệm hình sự, hơn nữa các trường hợp này không thể xử lý hành chính vì vượt quá mức độ của vi phạm hành chính. Để giải quyết vấn đề này, BLHS Việt Nam nên được sửa đổi theo hướng bổ sung vào cấu thành cơ bản của các tội phạm về môi trường nêu trên, hành vi vi phạm lần đầu gây hậu quả ở mức độ nhất định nào đó. Kết cấu rất thành công được các nhà Lập pháp của Việt Nam sử dụng trong các tội phạm về môi trường khác: “gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính”, nên được áp dụng cho tất cả các tội phạm về môi trường.

- Dấu hiệu về việc đã bị xử phạt hành chính trong các tội phạm về môi trường chỉ có thể là cơ sở cho việc định tội cụ thể nếu như đó là việc xử phạt hành chính đối với hành vi xâm hại môi trường cùng loại và chưa hêt thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính. Nội dung của các điều trong BLHS phần các tội phạm về môi trường thể hiện rất rõ kết luận này khi sử dụng hai kết cấu “đã bị xử phạt hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục” hoặc “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này”. Tuy nhiên cần nhận thức rằng môi trường là một thể thống nhất, các bộ phận của nó không thể tồn tại độc lập với nhau và với môi trường nói chung. Ý thức bảo vệ môi trường không thể chỉ đối với một bộ phận cấu thành nào đó của môi trường. Với lý do này, nên nâng cao ý thức và trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ môi trường của mọi người thông qua việc nâng cao khả năng xử lý bằng hình sự các hành vi xâm hại môi trường. Cụ thể, các điều luật quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường có thể chỉ cần yêu cầu dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính đối với hành vi xâm hại môi trường nói chung, mà không nhất thiết phải là những hành vi cùng loại. Ví dụ, người vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn thiên nhiên, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm nhập khẩu, xuất khẩu chất thải, cũng nên truy tố hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng. Đối với thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính, Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính(06-07-1995) quy định rõ ràng trong K.1 Đ.10 và thời hạn này là 1 năm.

c. Chủ thể của tội phạm về môi trường

Chủ thể của các tội phạm về môi trường là tất cả những người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. Hầu như các tác giả đều nhất trí với thành phần chủ thể của các tội phạm về môi trường nêu trên(4). Tuy nhiên có thể nhận thấy tồn tại vấn đề chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm cụ thể về môi trường từ đủ 14.

Tội phạm mà người thực hiện phải chịu trách nhiệm từ đủ 14 tuổi trong chương XVII là tội huỷ hoại rừng với khung hình phạt đặc biệt tăng nặng (K.3 Đ.189). Theo K.3 Đ.8 BLHS, tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù. Trong khi đó, ng­ười từ đủ 14 tuổi trở lên, nh­ưng ch­ưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý. Khung hình phạt cao nhất của tội hủy hoại rừng quy định tại K.3 Đ.189 đến 15 năm tù, đủ để liệt các tội này vào tội phạm rất nghiêm trọng. Đồng thời, những tội phạm này được thực hiện do cố ý. Dễ dàng nhận thấy việc người trên 14 tuổi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

Trong một số tội phạm về môi trường có chủ thể đặc biệt. Sự đặc biệt này thông thường nhất gắn với việc giữ chức vụ hoặc có quyền hạn của người vi phạm:

- Đối với tội “nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêu chuẩn bảo vệ môi trư­ờng” (Đ.185), người cho phép nhập khẩu hiển nhiên là người giữ chức vụ hoặc có thẩm quyền theo pháp luật trong các cơ quan Nhà nước. Ngoài những người kể trên, chịu trách nhiệm hình sự chỉ có thể là những người theo pháp luật có quyền kinh doanh hoạt động xuất, nhập khẩu. Theo K.1 Đ.8 Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 Quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài, thẩm quyền hoạt động xuất, nhập khẩu thuộc về các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy đinh của pháp luật theo ngành nghề đã đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đại diện cho các doanh nghiệp này chính là những người giữ chức vụ hoặc có quyền theo Điều lệ của doanh nghiệp. Trường hợp người không có thẩm quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu thực hiện hành vi nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêu chuẩn bảo vệ môi trư­ờng, thì cần xử lý theo Đ.153 “Tội buôn lậu” hoặc Đ.159 “Tội kinh doanh trái phép” tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế.

- Chịu trách nhiệm hình sự chỉ có thể là những người giữ chức vụ hoặc có quyền theo quy định của pháp luật còn đối với các hành vi “cho phép đư­a vào Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng truyền cho ngư­ời” (Đ.186) hoặc “cho phép đư­a vào Việt Nam động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật thuộc đối t­ượng kiểm dịch mà không thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm dịch” (Đ.187).

Nhìn chung xác định chủ thể của các tội phạm về môi trường theo pháp luật Việt Nam như vậy là hợp lý. Việc gìn giữ và bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mọi người. Để có được ý thức đúng đắn về môi trường cần có sự giáo dục và tuyên truyền thường xuyên. Những người chưa thành niên khả năng nhận thức còn có hạn, nhất là đối với một vấn đề phức tạp như môi trường. Biện pháp hữu hiệu để giải quyết mâu thuẫn này chính là các biện pháp xã hội như: đưa vấn đề giáo dục môi trường vào nhà trường, phát triển các hình thức tuyên truyền trong cộng đồng về môi trường v.v.

d. Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường

Trong quy định của BLHS tại các điều của tội phạm về môi trường không có một quy định trực tiếp hoặc một quy định “ngụ ý” nào để có thể khẳng định người vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp có lỗi do vô ý. Hơn nữa phần lớn các trường hợp chịu trách nhiệm hình sự sau khi đã từng bị xử phạt hành chính cho những hành vi vi phạm cùng loại, nên càng có cơ sở để khẳng định mặt chủ quan của tội phạm về môi trường được đặc trưng chỉ bằng lỗi cố ý. Trong các tài liệu khoa học pháp lý cũng thể hiện quan điểm này(5).

Nghiên cứu các hành vi xâm hại môi trường có thể rút ra một số nhận xét sau:

- Phá hoại môi trường là phá hoại chính điều kiện sống của con người, làm ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của nhiều người. Với sự gia tăng của các hành vi phá hoại này, nên coi các tội phạm này chủ yếu là các tội phạm rất nghiêm trọng để tương xứng với tính nguy hiểm xã hội rất cao của nó.

- Với đặc thù của các hoạt động xâm hại đến môi trường, thiệt hại nhiều và lớn nhất là do các tổ chức và doanh nghiệp gây ra trong quá trình sản xuất. Chính những người giữ chức vụ không thực hiện hết trách nhiệm của mình, không có ý thức bảo vệ môi trường và cẩu thả thực hiện công việc của mình gây thiệt hại cho môi trường, nhưng họ lại khó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì hành vi vi phạm phải với lỗi cố ý.

- Trong các tài liệu pháp lý của nước ngoài phần đông ý kiến cho rằng: “phần lớn các tội phạm về môi trường được thực hiện do lỗi vô ý”(6).

Từ sự nhận xét trên, có thể rút ra kết luận về việc mặt chủ quan của các tội phạm về môi trường không nên chỉ được đặc trưng bằng lỗi cố ý. Khi bình luận về “tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng” của BLHS 1985, các tác giả cũng cho rằng: “về mặt chủ quan, tội phạm được thực hiện do cố ý hoặc do vô ý”(7). Những hành vi do vô ý gây hậu quả nặng nề cho môi trường cũng cần được nghiêm trị nhằm tăng cường hiệu quả của thực tiễn bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Đồng thời việc chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp có lỗi vô ý nên được quy định trực tiếp trong các tội phạm cụ thể.

Trong mặt chủ quan của tội phạm về môi trường, mục đích và động cơ hầu như không có ý nghĩa để định tội. Tuy nhiên, cũng có tội có yêu cầu mục đích đối với một vài hành vi riêng lẻ. Thực hiện tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Đ.188) bằng hành vi sử dụng chất độc, chất nổ, các hoá chất khác, dòng điện hoặc các phương tiện, ngư cụ khác bị cấm đòi hỏi phải có mục đích “khai thác thuỷ sản hoặc làm hủy hoại nguồn lợi thủy sản” (M.a K.1 Đ.188).

3. HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG

Trong việc thay đổi cách đánh giá tầm quan trọng của hoạt động bảo vệ môi trường nói chung, các tội phạm về môi trường nói riêng, các nhà lập pháp của Việt Nam đã thực hiện một cách đồng bộ việc sửa đổi khung hình phạt của các tội phạm về môi trường. Nếu như BLHS năm 1985 coi tội phạm về môi trường là tội phạm ít nghiêm trọng với mức cao nhất của khung hình phạt là 2 năm, thì BLHS năm 1999 đánh giá 6/10 tội là rất nghiêm trọng, trong đó cá biệt có khung hình phạt cao nhất đến 15 năm (Đ.189) (xét khung hình phạt cao nhất của các tội). Số tội phạm về môi trường còn lại đều được đưa vào danh mục các tội phạm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, tính nghiêm khắc của khung hình phạt còn được thể hiện qua hình phạt “phạt tiền” với giá trị rất lớn (Đến hai trăm triệu đồng đối với tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản - Đ.188) và mỗi tội trong Chương tội phạm về môi trường còn có quy định riêng về hình phạt bổ sung cũng hết sức nghiêm khắc. Hình phạt tiền bổ sung có thể tới một trăm triệu đồng đối với tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho ng­ười (Đ.186). Ngoài ra, hầu như tất cả các tội phạm về môi trường còn quy định hình phạt bổ sung, theo đó ngư­ời phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Sự gia tăng đáng kể khung hình phạt đối với các tội phạm về môi trường một lần nữa khẳng định quyết tâm của Việt Nam đấu tranh với các hành vi phá hoại môi trường, đe doạ sự phát triển ổn định và thịnh vượng. Việc tăng cường áp dụng hình phạt tiền là một quyết định đúng đắn phù hợp với đặc thù của loại tội phạm này. Thực hiện các biện pháp cải thiện môi trường sống, phòng ngừa các thiệt hại về môi trường đòi hỏi những khoản chi phí rất lớn. Hơn nữa, để khắc phục những thiệt hại về môi trường do các hành vi phạm tội gây nên cũng đòi hỏi những khoản chi không nhỏ. Chính vì vậy, việc tăng cường áp dụng hình phạt tiền với giá trị lớn là một biện pháp hữu hiệu bảo vệ môi trường sống tại Việt Nam. Vấn đề quan trọng ở đây là xây dựng một cơ chế cụ thể và rõ ràng để có thể sử dụng tiền phạt này vào đúng mục đích khắc phục thiệt hại và gìn giữ môi trường.

Trong quá trình áp dụng hình phạt đối với các tội phạm về môi trường có thể phát sinh một số vấn đề liên quan đến kỹ thuật lập pháp, mà chủ yếu liên quan đến phạt tiền. Đó là những vấn đề sau:

- Khả năng áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Trong mỗi điều luật của Chương XVII “Các tội phạm về môi trường” có phần cuối cùng (thường là phần 3 hoặc phần 4, gọi là phần cuối) quy định “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền”. Tác giả Lê Cảm cho rằng quy định như vậy “không rõ ràng đó là hình phạt bổ sung”, sẽ khó đảm bảo được sự nhận thức đúng đắn và thống nhất như ngụ ý của nhà làm luật(8). Theo chúng tôi, quy định như trong các điều luật hiện hành về hình phạt tiền bổ sung nhìn chung ngắn gọn, rõ ràng và khó có thể gây sự hiểu không thống nhất trong quá trình áp dụng. Ý kiến này dựa vào một số lập luận sau:

+ Phần cuối cùng trong mỗi điều luật không hề quy định tình tiết tăng nặng mà chỉ quy định những hình phạt, như vậy không thể nhầm lẫn với những khung hình phạt chính tăng nặng tại phần 2 và 3. Các hình phạt quy định trong phần cuối mỗi điều, ngoài phạt tiền, đều là các hình phạt bổ sung theo K.2 Đ.28 BLHS, do đó càng dễ dàng khẳng định “phạt tiền” quy định trong phần này cũng là hình phạt bổ sung. Đặc biệt, với kết cấu “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền” đã thể hiện rất rõ phạt tiền theo quy định này không phải là hình phạt chính vì không thể áp dụng hai hình phạt chính cho một hành vi phạm tội. Tóm lại, phạt tiền trong phần cuối mỗi điều luật của Chương “Tội phạm về môi trường” chỉ có thể khẳng định là hình phạt bổ sung.

+ Khó có thể nhầm lẫn việc áp dụng “phần cuối” các hình phạt bổ sung, kể cả phạt tiền, chỉ dành cho một phần nào đó của điều luật. Trong “phần cuối” không hề có sự liệt kê phần nào trong các điều có thể áp dụng hình phạt bổ sung. Như vậy, có thể áp dụng các hình phạt bổ sung, kể cả phạt tiền, đối với người phạm tội bất kể người đó bị coi là có tội theo phần nào của điều luật và hình phạt chính do thẩm phán quyết định trên cơ sở tình tiết thực tế của vụ án là gì. Tất nhiên, phải lưu ý trường hợp ngoại lệ do chính BLHS quy định tại K.2 Đ.28, hình phạt bổ sung “phạt tiền” không áp dụng khi hình phạt chính là phạt tiền. Nếu người phạm tội bị xử theo khoản 1 của tội phạm về môi trường cụ thể, thẩm phán quyết định áp dụng phạt tiền thì sẽ không được phép áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, trong các trường hợp còn lại vẫn có thể áp dụng bình thường. Một lần nữa, chính kết cấu “người phạm tội còn có thể” đã thể hiện việc các nhà lập pháp không khẳng định việc người đó bị kết tội theo khoản nào của điều luật.

+ Việc quy định hình phạt bổ sung, kể cả phạt tiền, tại phần cuối cùng của mỗi điều luật trong Chương “tội phạm về môi trường” là một bước tiến trong việc phân hoá hình phạt cho phù hợp với tính nguy hiểm xã hội và những đặc thù khác của từng tội phạm. Trước đây, thường cuối mỗi chương có quy định chung về hình phạt bổ sung đối với tất cả các tội phạm trong chương tương ứng. Quy định như vậy sẽ khó tránh khỏi sự tuỳ tiện, lạm dụng của một số người khi áp dụng, ví dụ đối với tội phạm ít nghiêm trọng hơn lại có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cao hơn (số tiền phạt bổ sung cao hơn). Quy định hiện tại đã khắc phục được nhược điểm này. Người phạm tội với tính nguy hiểm xã hội cao ít hơn như “vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm” không thể bị áp dụng phạt tiền bổ sung quá hai mươi triệu đồng. Trong khi đó, người phạm tội với tính nguy hiểm xã hội cao hơn như “huỷ hoại rừng” có thể áp dụng tiền phạt bổ sung đến năm mươi triệu đồng.

- Tương quan giữa mức phạt tiền đối với vi phạm hình sự và vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Nguyên tắc chung trong việc quy định trách nhiệm pháp lý là: “hành vi nào có mức nguy hiểm xã hội cao hơn, thì tương ứng với nó, trách nhiệm pháp lý cũng cao hơn”. Ngoài nguyên tắc chủ đạo này, còn cần thiết áp dụng nguyên tắc: nhiều yếu tố khác cũng có thể ảnh hưởng đến việc quyết định mức độ trách nhiệm pháp lý như nhân thân người vi phạm, lỗi của người bị vi phạm v.v. Trên cơ sở nguyên tắc này có thể rút ra nguyên tắc chung sau: “Trách nhiệm pháp luật hình sự phải cao hơn trách nhiệm pháp luật hành chính đối với hành vi vi phạm cùng loại”.

Có lẽ trên cơ sở nguyên tắc chung nêu trên, tác giả Lê Cảm đã khẳng định tính bất hợp lý của quy định về phạt tiền đối với tội phạm về môi trường do mức phạt tiền này có thể thấp hơn giới hạn tối đa của phạt tiền với tư cách là hình thức xử phạt hành chính(9). Nhận xét này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc chung về trách nhiệm pháp lý, tuy nhiên chúng tôi cho rằng vấn đề này phức tạp hơn nhiều và cũng có những điểm hợp lý của nó. Chúng tôi xin trình bày ý kiến riêng và một số cơ sở lý luận về vấn đề này như sau:

+ Đối với trường hợp chủ thể có hành vi vi phạm hình sự và vi phạm hành chính chỉ có thể là cá nhân thì chúng tôi cũng hoàn toàn nhất trí với ý kiến của tác giả Lê Cảm. Trong trường hợp cụ thể ở đây, mức phạt tiền đối với hành vi tội phạm về môi trường không thể thấp hơn mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính cùng loại.

+ Đối với trường hợp chủ thể không chỉ có cá nhân, mà còn bao gồm cả tổ chức, thì nguyên tắc chung về trách nhiệm pháp lý có thể cần có ngoại lệ, đặc biệt là tại Việt Nam do hệ thống pháp luật công nhận chủ thể vi phạm pháp luật hành chính có thể là tổ chức, trong khi đó tổ chức lại không thể trở thành chủ thể của vi phạm pháp luật hình sự.

Như trên chúng ta đã phân tích các yếu tố nhân thân, xã hội v.v. có thể ảnh hưởng đến mức độ trách nhiệm pháp lý: tăng hoặc giảm. Cùng một hành vi đốt 5 héc-ta rừng, nhưng cá nhân A lại có mức hình phạt nhẹ hơn so với B do A là ng­ười có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác (là tình tiết giảm nhẹ), tức do tính chất chủ thể khác nhau. Vậy nếu A bây giờ là tổ chức – một chủ thể hoàn toàn khác loại – thì trách nhiệm pháp lý giữa A và B còn giống nhau nữa hay không? Hay chúng ta đặt tên cho vấn đề pháp lý này là trách nhiệm pháp lý của cá nhân và tổ chức đối với cùng một hành vi vi phạm có giống nhau không? Theo ý kiến cá nhân của chúng tôi, cần có sự phân hoá áp dụng các hình thức trách nhiệm, cũng như mức độ xử phạt, mà chủ yếu là đối với phạt tiền.

Chúng ta biết rằng cá nhân thực hiện hành vi vi phạm thì việc nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội, việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội, và sau đó là thực hiện chỉ do chính bản thân cá nhân. Trường hợp có sự câu kết với những người khác thì mức độ trách nhiệm pháp lý cao hơn. Trong khi đó, cơ chế ban hành một quyết định của tổ chức mà có thể dẫn tới vi phạm pháp luật lại tương đối phức tạp, do người giữ chức vụ hoặc trong phần lớn trường hợp được ban hành bởi một tập thể. Như vậy về bản chất của việc vi phạm, cần coi hành vi vi phạm của tổ chức có mức độ nguy hiểm xã hội cao hơn. Ngay từ thời kỳ phong kiến, Quan vi phạm thì xử phạt nặng hơn thứ dân vi phạm cùng hành vi đó một bậc, đã trở thành một truyền thống. Đây là một tập quán tốt đẹp, nên không có lý gì không áp dụng một cách sáng tạo vào pháp luật hiện đại. Hơn nữa, để quyết định của tổ chức ban hành có trách nhiệm hơn, tổ chức nên chịu trách nhiệm cao hơn so với cá nhân.

Ngoài ra nếu xét ý nghĩa của việc xử phạt đối với người vi phạm, mức độ tác động của cùng một mức phạt tiền đối với cá nhân và tổ chức cũng khác nhau. Do quy mô tài sản của tổ chức thông thường lớn hơn của cá nhân rất nhiều lần, nên mức phạt tiền tuy đã gây khó khăn cho cá nhân, buộc họ phải có những biện pháp tự kiềm chế hành vi của mình để không bị áp dụng biện pháp xử phạt, tức kiềm chế việc thực hiện các hành vi vi phạm, nhưng đối với các tổ chức thì lại hoàn toàn không đáng kể. Như vậy, tổ chức có thể vẫn không dừng việc vi phạm pháp luật hoặc vẫn sẽ cố ý vi phạm trong tương lai và biện pháp xử phạt coi như chưa phát huy được tác dụng của mình. Thực tế pháp lý đã chứng minh cho nhận định này. Để cho ví dụ mang tính điển hình nhất, chúng ta có thể lấy ví dụ trường hợp vi phạm Luật chống độc quyền của công ty Microsoft. Toà án Mỹ áp dụng biện pháp phạt tiền công ty với mức phạt tiền đến hàng triệu US$ mỗi ngày, tuy nhiên khoản phạt này không đáng kể với tài sản và lợi nhuận của công ty được đánh giá nhiều tỷ US$.

Tóm lại, nếu công nhận việc phân hoá xử phạt dành cho cá nhân và tổ chức theo hướng áp dụng biện pháp xử phạt với mức độ cao hơn cho tổ chức đối với cùng một hành vi vi phạm, thì việc tổ chức chịu xử phạt hành chính với mức độ phạt tiền ngang với cá nhân chịu phạt theo chế tài phạt hình sự là hoàn toàn có thể xảy ra.

Một điều đáng chú ý khi nói về sự phân hoá xử phạt ở Việt Nam đó là việc các tổ chức không thể trở thành chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Nếu tổ chức vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường đến mức xử phạt hình sự thì sẽ giải quyết như thế nào? Rõ ràng khi đó cũng chỉ có thể áp dụng phạt hành chính, vậy trong trường hợp này áp dụng mức phạt tiền theo chế tài hành chính quá mức tối thiểu quy định trong chế tài hình sự phải chăng là biện pháp tối ưu nhất?! Điều này cũng đồng nhất với việc xử phạt hành chính với mức phạt tiền có thể cao hơn mức phạt tiền tối thiểu trong chế tài hình sự.

Tóm lại, từ sự phân tích trên có thể chấp nhận khả năng phạt tiền hành chính có thể cao hơn phạt tiền hình sự cho các hành vi vi phạm pháp luật cùng loại, mà không nhất thiết chỉ trong lĩnh vực môi trường. Để có thể áp dụng được luận điểm này cần thiết xây dựng lý luận về trách nhiệm pháp lý của tổ chức. Đặc biệt, lý luận này cần được thể chế hoá một cách cụ thể trong Luật Hành chính, cũng như Luật Hình sự, thành những nguyên tắc và quy tắc áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của tổ chức.

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam chưa nhiều, nói một cách tương đối thì mới được hai năm kể từ khi BLHS mới của Việt Nam được thông qua với những quy định riêng. Với sự phát triển phức tạp của các hoạt động kinh tế và xã hội, các tội phạm về môi trường sẽ diễn ra phức tạp hơn nên đòi hỏi việc nghiên cứu phải thực hiện thường xuyên. Những vấn đề được nêu lên trong bài này mới chỉ là những vấn đề chung và tương đối dễ nhận thấy trên bề mặt. Mặc dù vậy có thể khẳng định việc giải quyết đúng đắn chúng là cơ sở cho việc áp dụng đúng đắn các quy định của Pháp luật Hình trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là những quy định về tội phạm môi trường cụ thể.

(1) Xem: Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2001, trang 320.

(2) Xem: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2000, trang 463.

(3) Xem: Luật Hình sự Xô viết, phần chung, Matxcơva, 1979 - 1983. Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm kinh tế, Matxcơva, 1987.

(4) Xem: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam,.Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2000, trang 467.

(5) Xem: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2000, trang 467.

(6) Xem: Pepốt, Hình thức lỗi trong các tội phạm về kinh tế, Tạp chí Luật số 5/1998.

(7) Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự: Phần các tội phạm, Viện nghiên cứu khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, trang 445.

(8) Xem: Lê Cảm, Về vấn đề tội phạm hóa một số hành vi xâm hại môi trường trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2001, trang 19.

(9) Xem: Lê Cảm, Về vấn đề tội phạm hóa một số hành vi xâm hại môi trường trong Pháp luật Hình sự Việt Nam hiện đại, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2001, trang 20.

Nhận thức chung đốI với Tội pham về môi trường và một số vấn đề liên quan

Tác giả TRẦN LÊ HỒNG
Tạp chí Tạp chí luật học
Năm xuất bản 2001
Tham khảo

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.
Nếu bạn thấy văn bản này có dấu hiệu vi phạm, vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét và xử lý văn bản này trong thời gian sớm nhất.

VĂN BẢN CÙNG CHỦ ĐỀ