Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.
 

 

1. Bàn về khái niệm oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự

Tố tụng hình sự là quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình đó bao gồm nhiều hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án; của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, của người tiến hành tố tụng và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hình sự nói riêng, hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung trong bất cứ lĩnh vực nào cũng sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất định.

Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự thì vấn đề quan trọng phải xác định đúng đối tượng được bồi thường. Oan theo nghĩa thông thường là“bị quy cho tội mà bản thân không phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng phải chịu”[1] hay theo Từ điển Tiếng Việt “oan” là một người “bị quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý”[2]. Còn dưới góc độ khoa học tố tụng hình sự, có nhận thức như sau:

“- Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra được bồi thường thiệt hại bao gồm:

- Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;

- Người bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giam vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;

- Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;

- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài các trường hợp quy định trên đây mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội (người bị khởi tố nhưng được tại ngoại)”[3].

Một khái niệm cũng tương đối gần với khái niệm “oan” mà hay được nhắc tới đó là khái niệm “sai”. Theo từ điển tiếng Việt thì “sai” được hiểu là “không phù hợp với cái hoặc điều có thật, mà có khác đi”. Trong tố tụng hình sự, việc giải quyết vụ án sai là trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách không khách quan, trái với những quy định của pháp luật. Nói cách khác “sai” trong tố tụng hình sự được hiểu là tính chất của hoạt động hoặc chất lượng giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không đúng với qui định của pháp luật, không đáp ứng được yêu cầu khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Hiện nay trong hệ thống pháp luật nước ta chưa có một văn bản nào xác định các tiêu chí đánh giá oan, sai trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Theo giải thích trên thì khái niệm “sai” có phạm vi rộng hơn so với khái niệm “oan”, việc làm “oan” người vô tội luôn là hệ quả của “sai”. Không phải trường hợp hành vi ‘sai’ của cơ quan tiến hành tố tụng đều dẫn đến việc làm “oan” người vô tội. Tuy nhiên, việc phân biệt thế nào là “oan”, “sai” trong hoạt động tố tụng hình sự là một vấn đề phức tạp cả về mặt lý luận cũng như pháp luật thực định. Thực tiễn lập pháp cho thấy, pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng không phân biệt hai khái niệm “oan”, “sai” mà chỉ quy định các trường hợp được bồi thường thiệt hại. Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 chỉ quy định các đối tượng bị “oan” mới được yêu cầu bồi thường thiệt hại; còn các trường hợp bị “sai” không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật. Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm và phạm vi của “oan” như sau:

- Thứ nhất, “oan” là trường hợp người không thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị tạm giữ, tạm giam, bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nội diên của khái niệm này chỉ ra rằng chỉ những người bị tạm giữ, tạm giam, bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhưng sau đó được xác định rằng họ không thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi của họ không cấu thành tội phạm mới được xác định là “oan”.

- Thứ hai, người bị tạm giữ oan là người hoàn toàn không có hành vi vi phạm pháp luật (bao gồm luật hình sự và các ngành luật khác: luật hành chính, lao động, dân sự, kinh tế…). Trường hợp bị tạm giam oan, thi hành án oan là người đã có hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

- Thứ ba, người bị tạm giữ oan là người thực tế không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự; còn các hành vi vi phạm khác như vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế… không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Đối với người bị tạm giam, bị thi hành án oan là những người có hoặc không có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, đã được các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không phạm tội do không cấu thành tội phạm hoặc được Tòa án tuyên bố không phạm tội.

Từ những nhận định trên, theo tác giả có thể hiểu một cách chung nhất: Oan trong tố tụng hình sự là việc một người trên thực tế không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, không cấu thành tội phạm nhưng đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

2. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự

Về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam từ rất sớm như tại Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Dân sự năm 1995 tại các Điều 623 và 624. Để cụ thể hóa quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995, ngày 03/5/1997, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/CP về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Sau đó, để cụ thể hóa Điều 29, 30 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, ngày 17/3/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.

Nhằm ban hành một văn bản luật quy định đầy đủ, toàn diện về các vấn đề có liên quan về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nói chung và trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng, ngày 18/6/2009, tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2010. Việc ban hành Luật là thực hiện một chủ trương lớn của Đảng trong Chiến lược cải cách tư pháp, thể hiện rõ bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tạo ra hệ thống cơ sở pháp lý tương đối hoàn chỉnh trong việc bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.

Theo quy định tại Điều 26 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, các trường hợp phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong  hoạt động tố tụng hình sự, bao gồm:

- Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự tiến hành nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra, tạo điều kiện cho người điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ bước đầu, xác định tính chất hành vi của người bị tình nghi thực hiện tội phạm đối với vụ án hình sự hoặc để bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử.

Trên thực tế, những trường hợp được coi là không có căn cứ, không cần thiết được coi là bị oan và được bồi thường khi lý do để huỷ quyết định tạm giữ là do người bị tạm giữ không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vì, khi cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự áp dụng biện pháp này có thể xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân.

- Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự do các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo trốn tránh pháp luật. Biện pháp tạm giam được áp dụng đối với những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và thi hành án hình sự. Hay nói cách khác, đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Tuy vậy, biện pháp tạm giam không phải áp dụng cho tất cả bị can, bị cáo mà nó chỉ được áp dụng trong một số trường hợp cụ thể được quy định tại Điều 119 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Như vậy, biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự, nó ảnh hưởng trực tiếp quyền lợi chính trị, quyền tự do của con người. Người bị tam giam bị cách li với xã hội, bị hạn chế một số quyền công dân. Do đó, để bảo đảm quyền của người bị tạm giam, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định khi người bị tạm giam có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì người bị tạm giam được Nhà nước bồi thường do họ bị tạm giam oan.

Ngoài ra, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì Nhà nước cũng có trách nhiệm bồi thường. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự, thì: “Nếu bị cáo không có tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và việc giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật” (Điều 260, Khoản 2). Những người đã bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân, đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt, người đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của toà án xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì người đó sẽ được xem xét bồi thường thiệt hại.

- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án nhưng không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội. Đây là trường hợp một người tuy không bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam hoặc không bị kết án phạt tù có thời hạn nhưng họ đã bị khởi tố, truy tố, xét xử và thi hành án, hay nói cách khác họ cũng đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng bằng các quyết định tố tụng đặc trưng của mình khẳng định họ là người có tội và có thể đã buộc họ phải chịu hình phạt (cảnh cáo, hình phạt tù cho hưởng án treo, hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú, hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản). Do đó, khi có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường.

- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành. Đây là trường hợp một người theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị tuyên là phạm nhiều tội trong cùng một vụ án và đã chấp hành hình phạt tù nhưng sau đó bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội. Do đó, khi hình phạt mà người đó phải chấp hành ít hơn thời gian mà họ đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành.

- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành.

- Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người đó không phạm một hoặc một số tội. Hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù, thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành

- Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 26 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì được bồi thường.

3. Thực trạng tình hình oan, sai làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự

Những năm gần đây, tình hình tội phạm có những diễn biến phức tạp, số vụ án, người phạm tội, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội có chiều hướng gia tăng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều nỗ lực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Về cơ bản, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; nhờ đó tình hình oan, sai trong TTHS được hạn chế đáng kể. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu của Hiến pháp 2013 thì tình hình oan, sai trong TTHS còn nhiều hạn chế.

Theo Báo cáo kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật” của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 20/5/2015[4], trong thời gian từ ngày 01/10/2011 đến ngày 30/9/2014, các cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố, điều tra 219.506 vụ án với 338.379 bị can, làm oan 71 trường hợp (chiếm 0,02%). Trong đó, Cơ quan điều tra đình chỉ 31 bị can do không có sự việc phạm tội; 12 bị can do hết thời hạn điều tra không chứng minh được tội phạm; Viện kiểm sát đình chỉ 09 bị can do không có sự việc phạm tội; 19 trường hợp Tòa án tuyên không phạm tội và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài các trường hợp bị oan trên, còn tồn tại tình trạng khởi tố, điều tra, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do hành vi không cấu thành tội phạm, do miễn trách nhiệm hình sự có dấu hiệu làm oan người vô tội như: Vụ án Trần Văn Đề (Bình Phước) bị khởi tố, bắt giam về “Tội không chấp hành bản án” có dấu hiệu làm oan, vì quyết định bản án dân sự đã có hiệu lực pháp luật có nội dung trái pháp luật, buộc ông Đề phải làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất cho ông Trần Văn Năng trái Luật đất đai nên không thể thi hành bản án; Vụ Đặng Công Văn, Bùi Văn Quỳnh (Ban quản lý chợ Đồng Xoài, Bình Phước) đã thi hành quyết định xử lý hành chính, xử lý kỷ luật được hơn 03 năm sau đó bị khởi tố về “Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” là không đúng pháp luật, có dấu hiệu làm oan vì đã xử lý hai lần cùng một hành vi vi phạm pháp luật[5].

Ngoài con số 71 người bị oan được xác định từ 01/10/2011 đến 30/9/2014, hiện còn một số trường hợp bị oan đang được xem xét, giải quyết cho thấy tình trạng làm oan người vô tội trong hoạt động TTHS còn nghiêm trọng. Các trường hợp làm oan đều ảnh hưởng lớn đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tài sản của người bị oan, có một số trường hợp đặc biệt nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận, mất lòng tin của nhân dân đối với công lý, giảm uy tín của cơ quan bảo vệ pháp luật như vụ 07 thanh niên bị bắt giam oan trong vụ án “Giết người”, “Cướp tài sản” xảy ra năm 2013 tại Sóc Trăng. Một số địa phương để xảy ra nhiều trường hợp làm oan như: Sóc Trăng (07 người); Khánh Hòa (06 người); Thanh Hóa (05 người); Vĩnh Phúc (04 người); Đăk Lắc (04 người); Cần Thơ (04 người); Bến Tre (03 người); Bình Phước (03 người); Quảng Trị (02 người); Cà Mau (02 người); Đà Nẵng (02 người)... Hầu hết các trường hợp bị oan trong những năm gần đây đều được các cơ quan có thẩm quyền tố tụng qua kiểm tra, phát hiện và cơ bản được khắc phục, xử lý trong giai đoạn điều tra.

Tóm lại, tuy biểu hiện vi phạm ở mỗi cơ quan tiến hành tố tụng là khác nhau nhưng hậu quả chung mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra đều là những thiệt hại về tài sản, sức khỏe, danh dự, uy tín, tinh thần và tự do cá nhân của người bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.

Qua nghiên cứu các trường hợp oan, sai do các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, có thể tổng kết do một số nguyên nhân sau:

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, một bộ phận người tiến hành tố tụng thực hiện không đúng, không đầy đủ, không chính xác các quy định pháp luật tố tụng và quy chế nghiệp vụ của ngành. Việc thu thập, đánh giá chứng cứ chưa thật đầy đủ, khách quan, toàn diện; chưa bảo đảm đúng nguyên tắc “suy đoán vô tội”, từ đó có thái độ đối xử với người bị bắt, bị can, bị cáo như là người có tội; có trường hợp bảo thủ, định kiến trong giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng bất lợi cho người bị tình nghi phạm tội. Khi thu thập chứng cứ, những người tiến hành tố tụng mới chỉ chú ý đến độ tin cậy chứng cứ mà xem nhẹ tính hợp pháp của trình tự thu thập chứng cứ. Trong thực tiễn tiến hành tố tụng, các hiện tượng ép cung, mớm cung, bắt giữ, giam giữ trái pháp luật... còn tồn tại chứng tỏ tính hợp pháp khi thu thập chứng cứ đã không được người có thẩm quyền tiến hành tố tụng coi trọng đúng mức. Hậu quả nghiêm trọng của việc không tôn trọng tính hợp pháp quá trình thu thập chứng cứ là tạo ra chứng cứ phi pháp và hậu quả của nó là vô cùng nghiêm trọng dẫn đến việc kết án oan, sai người vô tội.

Thứ hai, hồ sơ vụ án hình sự còn có xu hướng nặng về buộc tội; tại phiên tòa Kiểm sát viên còn tập trung vào bảo vệ cáo trạng; quá trình tranh tụng tại phiên tòa còn hình thức, một bộ phận Thẩm phán, Kiểm sát viên còn coi trọng “án tại hồ sơ” từ đó chưa chủ động tranh luận, tích cực làm rõ các tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa.

Thứ ba, việc phối hợp liên ngành trong một số trường hợp chưa đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, thiếu sự chế ước, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan tư pháp. Một số Viện kiểm sát chưa làm tốt nhiệm vụ công tố gắn với hoạt động điều tra, thực hiện không đầy đủ các thẩm quyền theo luật định; có nơi còn phối hợp nhất trí một chiều với cơ quan điều tra trong nhận định, đánh giá tính chất vụ án, ít nêu yêu cầu khởi tố, yêu cầu điều tra. Trong một số trường hợp, sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của các cơ quan tố tụng trung ương chưa kịp thời hoặc ý kiến khác nhau... gây khó khăn, lúng túng cho địa phương.

Thứ tư, một số địa phương còn xảy ra tình trạng còn thiếu Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Việc phân bổ Kiểm sát viên, Thẩm phán ở nhiều địa phương chưa thật sự phù hợp gây lãng phí nguồn lực. Đội ngũ Luật sư còn thiếu, tính chuyên nghiệp chưa cao. Cơ sở để bào chữa cho bị can, bị cáo chủ yếu vẫn là hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra. Chất lượng tranh tụng của luật sư bào chữa chỉ định thấp, có luật sư vi phạm pháp luật, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử[6].

* Nguyên nhân khách quan

- Nguyên nhân do sự thay đổi của chính sách pháp luật và những tồn tại, hạn chế trong các quy định của pháp luật. Đối với Việt Nam, khoảng thời gian từ 1985 - 2000 và sau những năm 2000 là sự thay đổi có tính lịch sử, cách mạng của đất nước. Yêu cầu đổi mới mọi mặt của xã hội đặt ra phải sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện các quy định của pháp luật nhằm góp phần đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong điều kiện mới.

Trong điều kiện phát triển đó, vấn đề thay đổi quy định của pháp luật, nhất là một số ngành luật liên quan đến hoạt động TTHS cũng ảnh hưởng đến kết quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Một trong những đặc thù tiêu biểu của Bộ luật Hình sự năm 1999 là sự đan xen giữa hai chiều hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam là: Hình sự hóa một số hành vi nguy hiểm cho xã hội trở thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc tăng mức hình phạt đối với một số tội danh so với Bộ luật Hình sự năm 1985 và phi hình sự hóa là việc loại bỏ ra khỏi Bộ luật Hình sự một số hành vi vốn được coi là tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1985.

Sau gần 10 năm áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999, một số quy định của Bộ luật Hình sự còn nhiều bất cập, thiếu các hướng dẫn cụ thể về các tình tiết định tính như: “hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng; số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; quy mô thương mại, động vật được ưu tiên bảo vệ” ... Việc phân biệt giữa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các vi phạm trong giao dịch dân sự, kinh tế... là căn cứ miễn trách nhiệm hình sự tại Điều 25 Bộ luật Hình sự và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự chưa rõ ràng.

Bên cạnh những hạn chế của Bộ luật Hình sự, một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự còn hạn chế, bất cập như: Nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa; khái niệm chứng cứ, các nguyên tắc đánh giá, sử dụng và loại trừ chứng cứ, chủ thể có thẩm quyền thu thập chứng cứ cần phải được sửa đổi, hoàn thiện. Nhiều thủ tục tố tụng còn rườm rà, phức tạp, thời hạn tố tụng chưa hợp lý, căn cứ bắt, tạm giữ, tạm giam chưa chặt chẽ... gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp chưa thực sự phù hợp với Bộ luật Hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng pháp luật.

- Nguyên nhân do điều kiện làm việc, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của cơ quan tư pháp, giám định tư pháp nhiều nơi và trên nhiều lĩnh vực còn thô sơ, lạc hậu, cơ sở giam, giữ chưa đáp ứng yêu cầu.

4. Thực tiễn việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự ở Việt Nam

Tình trạng làm oan người vô tội trong hoạt động tố tụng hình sự đã gây bức xúc trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân vào các cơ quan tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, những người là “nạn nhân” của hoạt động tố tụng hình sự tuy đã được minh oan nhưng những thiệt hại về vật chất, tinh thần họ phải chịu đựng vẫn còn tồn tại. Kể từ khi Nghị quyết số 388 và sau này Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có hiệu lực pháp luật đã tạo cơ sở vững chắc giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết bồi thường thiệt hại, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của người bị oan.

Theo Báo cáo kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật” của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 20/5/2015 đã xác định tình trạng người bị oan có yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và khôi phục danh dự đang có xu hướng gia tăng.

Trong 03 năm từ năm 2011 đến năm 2014, Cơ quan điều tra đã thụ lý 15 đơn yêu cầu bồi thường, đã giải quyết 05 trường hợp với số tiền 452.578.000 đồng; 08 trường hợp đang giải quyết, 02 trường hợp không thuộc diện bồi thường. Viện kiểm sát các cấp thụ lý 78 đơn yêu cầu bồi thường, đã giải quyết 69 đơn: bồi thường 62 trường hợp với số tiền 11.360.264.068 đồng (trong đó 58 trường hợp thương lượng thành, 04 trường hợp khởi kiện ra Tòa án); 02 trường hợp không yêu cầu bồi thường về tiền, 05 trường hợp trả lại hoặc đương sự rút đơn yêu cầu; đang tiến hành giải quyết 09 trường hợp. Tòa án nhân dân các cấp thụ lý 22 đơn yêu cầu bồi thường, 06 đơn khởi kiện; đã giải quyết 19 trường hợp với số tiền 27.792.190.994 đồng, trả lại 03 đơn, 06 đơn đang trong quá trình giải quyết[7].

Theo Báo cáo tổng kết 06 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước của Bộ Tư pháp, từ khi Luật có hiệu lực đến ngày 31/12/2015, Tòa án các cấp đã thụ lý, giải quyết 38 vụ việc, đã giải quyết xong 32 vụ việc, với số tiền phải bồi thường là 37 tỷ 772 triệu 742 nghìn đồng (trong đó có 7 tỷ 272 triệu 247 nghìn đồng của ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), 22 tỷ 977 triệu 183 nghìn đồng của ông Lương Ngọc Phi (Thái Bình), còn 06 vụ việc đang giải quyết; Viện kiểm sát các cấp đã thụ lý, giải quyết đối với 113 trường hợp yêu cầu bồi thường, đã giải quyết xong 93 trường hợp, với tổng số tiền phải bồi thường là 16 tỷ 415 triệu 005 nghìn đồng, còn 20 trường hợp đang giải quyết; Ngành Công an đã thụ lý, giải quyết 11 vụ việc, đã giải quyết xong 7 vụ việc, với số tiền phải bồi thường là 2 tỷ 221 triệu 637 nghìn đồng, còn 04 vụ việc đang tiếp tục giải quyết; cơ quan tiến hành tố tụng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng đã thụ lý, giải quyết 01 vụ việc với số tiền bồi thường là 350 triệu đồng (Quân khu III)[8].

5. Một số góp ý hoàn thiện pháp luật để hạn chế các vụ việc oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự 

- Cần sửa đổi một số quy định của Bộ luật Hình sự về định lượng và định tính, tạo điều kiện khắc phục việc khởi tố, xử lý hình sự tràn lan dẫn đến làm oan hoặc hành chính hóa các quan hệ hình sự dẫn đến bỏ lọt tội phạm như: nâng mức định lượng trong các tội chiếm đoạt như trộm cắp, cướp giật và các tội phạm khác như đánh bạc, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới... các tình tiết định tính như “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn”, “dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm”, “động cơ cá nhân khác” trong các tội phạm kinh tế, chức vụ, tham nhũng; tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” trong tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác”...

- Sửa đổi, bổ sung, quy định rõ dấu hiệu pháp lý đặc trưng của một số tội trong Bộ luật Hình sự, khắc phục tình trạng hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế làm oan người vô tội, tạo điều kiện xác định đúng tội danh trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử như: Tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội “Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”; phân biệt tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; giữa tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người”....

- Sửa đổi, bổ sung các quy định để tạo điều kiện cho việc thu thập, đánh giá phân tích chứng cứ và sử dụng chứng cứ như: nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc và trách nhiệm xác định sự thật khách quan của vụ án; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; sửa đổi các quy định về thu thập, đánh giá và loại bỏ chứng cứ, bảo quản, xử lý vật chứng, khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định bảo đảm tôn trọng quyền của người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo, nhất là quyền bào chữa, quyền thu thập chứng cứ, yêu cầu giám định của người bị buộc tội...; mở rộng chủ thể thu thập chứng cứ. Sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm khắc phục việc mớm cung, dụ cung, bức cung, nhục hình trong hoạt động điều tra.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định tạo điều kiện cho việc khởi tố, điều tra tội phạm để chống bỏ lọt tội phạm; khắc phục việc bắt tạm giữ hình sự, tạm giam sau đó chuyển xử lý hành chính như: sửa đổi tăng thời hạn giải quyết đối với tin tố giác, tin báo về tội phạm phức tạp; quy định chặt chẽ các căn cứ khởi tố bị can, căn cứ bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam; căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

Khánh Vân

 

 

[1] Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.744

 

[2] Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, tr. 1269.

 

 

[3] Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2005), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

 

[4] Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2015), Báo cáo số 870/BC-UBTVQH ngày 20/5/2015 báo cáo về kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật”, Hà Nội.

 

 

[5] Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2015), Báo cáo số 870/BC-UBTVQH ngày 20/5/2015 báo cáo về kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật”, Hà Nội.

[6] Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2015), Báo cáo số 870/BC-UBTVQH ngày 20/5/2015 báo cáo về kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật”, Hà Nội.

[7] Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2015), Báo cáo số 870/BC-UBTVQH ngày 20/5/2015 báo cáo về kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật”, Hà Nội.

[8] Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo số 181/BC-BTP ngày 15/7/2016 báo cáo tổng kết 06 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

 

Vấn đề oan, sai và trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự

Tác giả Khánh Vân
Tạp chí TẠP CHÍ DÂN CHỦ VÀ PHÁP LUẬT
Năm xuất bản 2017
Tham khảo

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.
Nếu bạn thấy văn bản này có dấu hiệu vi phạm, vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét và xử lý văn bản này trong thời gian sớm nhất.

VĂN BẢN CÙNG CHỦ ĐỀ