Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

MỞ ĐẦU

Trong dòng chảy của xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, bất kỳ một quốc gia nào cũng phải "trang bị" cho mình một nền tư pháp hoàn chỉnh bên cạnh sự ổn định về chính trị và vững mạnh về kinh tế. Đó là một tất yếu cho sự phát triển của đất nước. Hoà mình trong dòng chảy đó, Việt Nam cũng không ngừng hoàn thiện mình về phương diện pháp luật nói chung và pháp luật về luật sư, hành nghề luật sư nói riêng nhằm tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ luật sư, để đất nước có một đội ngũ luật sư tài năng và đạo đức. Đây cũng chính là một yêu cầu cấp thiết được đặt ra theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và đặc biệt là Nghị quyết 08 ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp. Vì rằng, trong một nền tư pháp dân chủ, khi mà các giá trị quyền con người được tôn vinh và là đích đến của toàn bộ hệ thống tư pháp thì hoạt động của luật sư với sứ mệnh bảo vệ công lý, công bằng xã hội được coi là một đại lượng để đánh giá uy tín và chất lượng của hoạt động tư pháp. Nghị quyết 08- NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã chỉ ra rằng nghề luật sư ở nước ta đang có những cơ hội phát triển đầy thuận lợi. “Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình".

Trong những năm gần đây, pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư cũng như các hoạt động lập pháp trong lĩnh vực này đã có những thành quả tích cực mà biểu hiện sinh động là việc ban hành Luật Luật sư 2006 thay thế Pháp lệnh luật sư năm 2001 (trước đó nữa là Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987), tuy nhiên vẫn còn rất nhiều vấn đề cần được quan tâm một cách thấu đáo hơn nữa trong thực tiễn cải cách tư pháp nói chung và vấn đề pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư nói riêng.

Xuất phát từ những ý nghĩa trên, tác giả lựa chọn vấn đề "Pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam – thực trạng và phương hướng hoàn thiện" làm đề tài cho bài tiểu luận của mình để mong muốn có một cái nhìn sâu hơn về vấn đề quan tâm.

NỘI DUNG

Chương 1

Một số lý luận về pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư

 1.1. Khái niệm về luật sư, nghề luật sư và pháp luật về luật sư

Trước khi bàn đến khía cạnh pháp luật về luật sư, chúng ta cấn hiểu thế nào là luật sư và nghề luật sư.

Quyền bào chữa và quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp là một trong những quyền cơ bản của công dân trong nhà nước pháp quyền; công dân có thể tự bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc nhờ người khác bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án. Xuất phát từ nhu cầu đó, luật sư và nghề luật sư đã hình thành và phát triển cách đây hàng trăm năm ở nhiều nước trên thế giới.

-Khái niệm về luật sư:

Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác”. Điều 2 Luật Luật sư (29/6/2006) ghi nhận, “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tiêu chuẩn luật sư được quy định tại Điều 10 Luật Luật sư như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư.

Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật này muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.

- Khái niệm về nghề luật sư:

Ở Việt Nam, nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi hành nghề theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần tích cực bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Đây là một nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư. Về tính chất, hoạt động nghề nghiệp của luật sư bao gồm ba tính chất: trợ giúp, hướng dẫn và phản biện.

- Tính chất trợ giúp: là sự giúp đỡ, bênh vực hoàn toàn vô tư, không vụ lợi của luật sư cho những người ở vào vị thế thấp kém thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật trong xã hội hay những người như người nghèo, người già đơn côi, người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của gia đình. Hoạt động trợ giúp của luật sư đối với những đối tượng này không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.

- Tính chất hướng dẫn: là việc hướng dẫn cho đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật để biết cách xử sự tháo gỡ vướng mắc của họ phù hợp với pháp lý và đạo lý.

- Tính chất phản biện: Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư là những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý. Hoạt động phản biện của luật sư là lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai…từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ cái sai, bảo vệ công lý.

Xuất phát từ tính chất, đặc thù của nghề luật sư, nó đòi hỏi luật sư ngoài các phẩm chất chung là Chân, Thiện, Mỹ, luật sư còn phải là người có khối óc thông minh, tấm lòng trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm cơ sở hoạt động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội.

- Khái niệm  pháp luật về luật sư: Luật sư và nghề luật sư luôn gắn với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về luật sư nói riêng. Pháp luật về luật sư là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động nghề nghiệp giữa luật sư với khách hàng, các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có thẩm quyền khác, về việc quản lý Nhà nước và sự tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư do Nhà nước đặt ra, thừa nhận và bảo đảm thi hành.

Có thể nói, pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư có một vị trí quan trọng trong nền tư pháp, cũng như đóng vai trò rất lớn trong hệ thống pháp luật nói chung. Bởi vì Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập và hoạt động nghề nghiệp của luật sư có vai trò rất quan trọng. Tính chất quan trọng đó thể hiện hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính vì thế, pháp luật về luật sư chính là sự bảo đảm về mặt nhà nước cũng như xã hội để luật sư và hoạt động nghề nghiệp của luật sư được thực hiện một các đúng mực mang lại sự hiệu quả và thực thi được sứ mệnh cao cả của nó.

1.2. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về luật sư ở Việt Nam

   1.2.1. Pháp luật về luật sư trước cách mạng tháng 8 năm 1945

Trước khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm chiếm, việc xét xử ở nước ta do vua quan phong kiến tiến hành, không có sự tham gia của luật sư. Chỉ sau khi xâm lược Nam kỳ, ngày 26/11/1876 người Pháp ban hành Nghị định về việc biện hộ cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp tại Tòa án Pháp.

Sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, năm 1884, Toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội gồm các luật sư người Pháp và người Việt Nam đã nhập quốc tích Pháp. Các luật sư chỉ biện hộ trước Tòa án Pháp cho người Pháp hoặc người có quốc tịch Pháp.Với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư.

Sắc lệnh cuối cùng của người Pháp về luật sư là Sắc lệnh ngày 25/5//930 về tổ chức Luật sư đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Sắc lệnh này đã mở rộng cho các luật sư không chỉ biện hộ ở tòa án Pháp mà cả trước Toà Nam án; không chỉ bào chữa cho người có quốc tịch Pháp mà cả người không có quốc tịch Pháp.

Người Việt Nam đầu tiên làm luật sư đó là ông Phan Văn Trường (1876 - 1933). Ông là người làng Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Ông tốt nghiệp Đại học luật và làm luật sư tại Paris. Ông là nhà yêu nước. Khi Bác Hồ hoạt động cách mạng tại Paris, đã có thời gian Bác sống tại nhà luật sư Phan Văn Trường.

Một sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ là năm 1926, Bác Hồ đã bị Tòa án Vinh của thực dân Pháp kết án tử hình. Ngày 6/6l/931, khi Người đang hoạt động cách mạng ở nước ngoài thì bị cảnh sát Anh bắt ở Hồng Ông. Khi bị bắt Người mang tên là Tống Văn Sơ. Thực dân Pháp tìm mọi cách yêu cầu chính quyền Anh giao Người cho thực dân Pháp ở Đông Dương. Trong tình thế đó, nhờ tài ứng xử tuyệt vời của người và có sự giúp đỡ, bênh vực tích cực của luật sư Lô - dơ - bai (người anh), chính quyền anh ở Hồng Hông đã phải trả tự đo cho Người vào đầu năm 1932. Luật sư Lô - dơ - bai còn giúp Người trốn khỏi Hồng Hông. Sau này với cương vị Chủ tịch nước, Bác Hồ đã mời ông bà Lô - dơ - bai sang thăm Việt Nam như là thượng khách.

   1.2.2. Pháp luật về luật sư từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay.

Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân, bộ máy tư pháp được tổ chức lại. Chỉ hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người đứng đầu chính quyền mới đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 duy trì tổ chức luật sư cũ trong đó có sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân. Điều 67 của Hiến Pháp quy định "Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” (Điều 67 của Hiến pháp năm 1946).

Tuy nhiên, không lâu sau khi giành được độc lập, toàn Đảng, toàn dân ta đã phải tập trung sức người, sức của cho cuộc kháng chiến cứu nước. Trong điều kiện đó, tổ chức luật sư không thể tiếp tục duy trì. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều luật gia, luật sư đã ra mặt trận, lên chiến khu hoặc tham gia vào hoạt động tư pháp tại các vùng do chính quyền ta kiểm soát. Trong điều kiện khó khăn của cuộc kháng chiến, tuy tổ chức luật sư không còn được duy trì, nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn quan tâm đến việc bảo đảm quyền bào chữa trước Toà án của bị cáo, một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi trong Hiến pháp. Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định nguyên cáo, bị cáo có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình. Để cụ thể hóa Sắc lệnh 69/SL ngày 18-6-1949, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 1/NĐ - VY ngày 12-1-1950 quy định về bào chữa viên. Chế định bào chữa viên được hình thành là một chế định phù hợp với điều kiện của nước ta khi đó, thể hiện sự coi trọng, quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến việc thực thi quyền bào chữa nói riêng và việc xây dựng một nền tư pháp công bằng, dân chủ của chế độ mới. Tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1959 (Điều 101) đã quy định "Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm"; Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 ngoài việc khẳng định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, còn quy định việc thành lập tổ chức luật sư để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện quy định của Hiến pháp, trong giai đoạn triển khai xây dựng văn bản pháp luật về tổ chức luật sư, đội ngũ bào chữa viên tiếp tục được củng cố và phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Ngày 31/10/1983 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số  691/QLTPK về công tác bào chữa, trong đó quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện làm bào chữa viên, quy định ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập một Đoàn bào chữa viên, riêng ở hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh thì thành lập Đoàn luật sư, bào chữa viên, tập hợp các luật sư đã được công nhận trước đây và các bào chữa viên. Thực hiện Thông tư số  691/QLTPK, đến cuối năm 1987, trên cả nước đã có 30 Đoàn bào chữa viên với gần 400 bào chữa viên.

Từ sau ngày giải phóng, miền Nam, thống nhất đất nước đến những năm nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên chúng ta đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thức thách do sự lạc hậu của cơ chế tập trung quan liêu-bao cấp. Một yêu cầu khách quan, mang tính sống còn đối với đất nước là phải đổi mới, trước hết là xoá bỏ cơ chế quan liêu-bao cấp và mở rộng dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV năm 1986 đã mở đầu một thời kỳ lịch sử mới xây dựng đất nước, thời kỳ đổi mới. Đường lối đổi mới do Đại hội vạch ra đã tác động sâu rộng đến mọi mặt hoạt động trong xã hội, trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng được ban hành theo hướng mở rộng dân chủ trong tố tụng, trong đó có việc tăng cường bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước Toà án và các cơ quan tố tụng khác.

Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành ngày 18/12/1987. Có thể nói, Pháp lệnh tổ chức luật sư là văn bản pháp luật có ý nghĩa lịh sử trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh quy định rõ tiêu chuẩn được công nhận là luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của luật sư. Pháp lệnh cũng đã quy định về việc tổ chức các Đoàn luật sư ở các tỉnh, thanh phố trực thuộc Trung ương. Thi hành Pháp lệnh tổ chức luật sư, chỉ sau gần 10 năm, ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Đoàn luật sư; đội ngũ luật sư trong cả nước đã đạt tới con số hàng ngàn luật sư. Hoạt động luật sư cũng có bước phát triển đáng kể. Ngoài việc tăng cường một bước về số lượng và chất lượng tham gia tố tụng của luật sư trong các vụ án hình sự, dân sự, các luật sư đã từng bước mở rộng hoạt động hành nghề sang lĩnh vực tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.

Sau hơn 10 năm kể từ Đại hội Đảng lần thứ IV, công cuộc đổi mới ở đất nước ta đã thu được những thành tự to lớn và quan trọng. Từ nửa cuối thập niên 90, đất nước ta bước vào giai đoạn quan trọng của quá trình đổi mới, trong đó nhu cầu đẩy mạnh quá trình xây dựng cơ chế thị trường, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế ngày càng trở lên sâu sắc, ở mức độ cao hơn.

Trước tình hình đó, để đáp ứng nhu cầu mới, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành. Nội dung của Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá đội ngũ luật sư, nghề luật sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam. Với nội dung tiến bộ, phù hợp với yêu cầu khách quan, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể  cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, cũng trong 5 năm đó các luật sư đã thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn phòng luật sư, các công ty luật hợp danh. Các Đoàn luật sư được xây dựng lại và củng cố để làm đúng chức năng của tổ chức xã hội-nghề nghiệp tự quản của các luật sư. Hoạt động hành nghề của luật sư cũng được tăng lên đáng kể về phạm vi và chất lượng.

Có thể nói, Pháp lệnh luật sư năm 2001 là văn bản mở đầu cho quá trình chuyên nghiệp hoá và hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam, đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật sư ở nước ta.

Trong những năm đầu của thiên niên kỷ XXI, cùng với bước phát triển và những yêu cầu mới của xu thế toàn cầu hoá, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta đã có những bước phát triển nhanh và mạnh mẽ với những sự kiện quan trọng mang tính chất đột phá. Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế  (WTO) đã tạo ra vị thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới to lớn cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là phải chuyển đổi hệ thống pháp luật và các thiết chế cùng với cơ chế vận hành theo lộ trình phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO. Tổ chức, hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động luật sư nói riêng cũng nằm trong bối cảnh chung đó. Trong các năm 2005, 2006, 2007, Nhà nước ta đã ban thành một số lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật không còn phù hợp, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007.

Luật Luật sư được ban hành đã góp phần nâng cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng một đội ngũ luật sư, nghề luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với luật sư và nghề luật sư ở các nước tiên tiến trên thế giới. Đặc biệt Luật Luật sư đã quy định hoàn chỉnh hệ thống các tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư từ Trung ương tới các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm Tổ chức luật sư toàn quốc và các Đoàn luật sư. Với quy định này, Luật Luật sư đã tạo cơ sở  pháp lý nâng cao vai trò tự quản của nghề luật sư.

Có thể nói, Luật Luật sư là mốc son đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của pháp luật về luật sư ở Việt Nam qua hơn 60 năm xây dựng và phát triển chế định pháp luật này.

 

Chương 2

Thực trạng pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam và những phương hướng hoàn thiện

2.1. Thực trạng pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam

   2.1.1. Về đội ngũ luật sư

Sau khi Pháp lệnh luật sư và đặc biệt là Luật Luật sư 2006 được ban hành, đội ngũ luật sư đã có  sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Sự phát triển, thay đổi của đội ngũ luật sư một phần do những quy định đổi mới của Luật Luật sư về các tiêu chí như tiêu chuẩn luật sư, điều kiện hành nghề luật sư, quy trình trở thành luật sư, các quy định về tập sự, gia nhập Đoàn Luật sư...

Chẳng hạn, về tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề luật sư:

- Tiêu chuẩn luật sư (Điều 10): Theo Luật Luật sư, công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ đại học luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư.

-  Điều kiện hành nghề luật sư (Điều 11)

Kế thừa quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư quy định người muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư. Quy định này nhằm bảo đảm tính chuyên nghiệp của nghề luật sư, phòng ngừa tình trạng những người không có đủ tiêu chuẩn, điều kiện vẫn thực hiện dịch vụ pháp lý như luật sư, góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức và xã hội, tăng cường quản lý về hành nghề luật sư. Điều kiện này cũng được pháp luật về hành nghề luật sư của nhiều nước trên thế giới quy định.

Như vậy, về tiêu chuẩn luật sư, Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã đặc biệt chú trọng nâng cao tiêu chuẩn về chuẩn chuyên môn, về phẩm chất đạo đức đối với luật sư. Đồng thời, theo hướng “chuyên nghiệp hoá” đội ngũ luật sư, Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư quy định cán bộ, công chức không được hành nghề luật sư.

Có thể nói, chính nhờ những thay đổi về mặt quy định như vậy nên trong những năm gần đây, chất lượng của đội ngũ luật sư đã được nâng lên đáng kể, về cơ bản đủ khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý tin cậy cho khách hàng. Số lượng luật sư trong cả nước đã tăng lên đáng kể ( từ 1.883 luật sư và 1.535 luật sư tập sự (tính đến ngày 31/5/2005) lên đến gần 4.200 luật sư và 2.000 người tập sự hành nghề luật sư (tính đến hết tháng 6/2008). Trong tổng số luật sư hiện nay, số luật sư có trình độ cử nhân luật trở lên được nâng từ 59% (năm 1989) lên 96,95% (năm 2008); số luật sư có trình độ tương đương đại học luật chỉ còn 128 người, chiếm 3,05%. Số luật sư đã qua đào tạo nghề luật sư chiếm 65,8% tổng số luật sư của cả nước.

Tuy nhiên, vấn đề về đội ngũ luật sư nước ta còn một số hạn chế sau đây:

Thứ nhất, số lượng luật sư hiện có so với dân số còn rất thấp. Tỷ lệ luật sư nước ta trung bình là 1 luật sư/20.700 người dân, trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan là 1/1526, Singapore là 1/1000, Nhật Bản là 1/4546, Pháp là 1/1000, Mỹ là 1/250. Mặt khác, số lượng luật sư phát triển chưa cân đối giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du.

Thứ hai, chất lượng của đội ngũ luật sư còn nhiều hạn chế. Gần một nửa số lượng luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng hành nghề. Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Các luật sư vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến quá trình bào chữa, tranh luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị tại phiên toà. Một số luật sư còn có thái độ ứng xử nghề nghiệp chưa đúng mực trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ luật sư.

Thứ ba, về mức độ chuyên môn hoá trong hành nghề, đa số luật sư ở nước ta hành nghề trong tất cả các lĩnh vực tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Tuy số lượng luật sư ở nước ta trong những năm gần đây tăng lên đáng kể, song vẫn chưa hình thành được đội ngũ các luật sư chuyên sâu về những lĩnh vực khác nhau. Các luật sư chủ yếu hành nghề trong hai lĩnh vực dân sự và hình sự. Trong các lĩnh vực pháp luật khác như hành chính, lao động, kinh tế…tỷ lệ vụ việc mà các luật sư tham gia tương đối thấp.

   2.1.2.Về hoạt động hành nghề của luật sư

Những quy định về hoạt động hành nghề của luật sư theo Luật Luật sư có nhiều điểm mới so với Pháp lệnh luật sư và được xây dựng trên quan điểm chỉ đạo là cụ thể hoá quyền, nghĩa vụ của luật sư trong từng lĩnh vực hành nghề, quy định rõ hơn cơ chế pháp lý bảo đảm cho luật sư thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ, đồng thời đề cao trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư trong quá trình hành nghề.

-  Về phạm vi hành nghề

Có thể thấy rằng sau khi Pháp lệnh luật sư năm 2001 và đặc biệt sau khi Luật Luật sư được ban hành, hoạt động hành nghề luật sư có những bước chuyển biến rõ rệt. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư thì dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Luật Luật sư đã mở rộng hơn phạm vi hành nghề luật sư với việc quy định luật sư được đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng. Có thể nói trên cơ sở những quy định ngày càng thông thoáng hơn của pháp luật cộng với sự nỗ lực của các luật sư, dịch vụ pháp lý của luật sư tăng đáng kể về số lượng và nâng cao một bước về chất lượng.

+ Tham gia tố tụng là lĩnh vực hành nghề chủ yếu của các luật sư hiện nay. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia giải quyết hàng trăm nghìn vụ án. Vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã có những bước phát triển về chất. Xuất phát từ việc pháp luật tố tụng đang từng bước được hoàn thiện, các cơ quan tiến hành tố tụng đã quan tâm hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo, đương sự. Đặc biệt sau khi Nghị Quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã nêu rõ: "Khi xét xử, các toà án ...việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa... Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia cào quá trình tố tụng ...", thì vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã được nâng lên một bước. Nhiều cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát đã tạo điểu kiện cho luật sư tham gia vào quá trình tố tụng được thuận lợi hơn. Ý kiến của luật sư tại phiên toà đã được cơ quan công tố quan tâm và coi trọng. Việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. 

+ Tư vấn pháp luật là lĩnh vực hành nghề quan trọng của luật sư, đặc biệt trong điều kiện nhu cầu về tư vấn pháp luật trong xã hội ngày càng tăng nhanh. Các luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong các lĩnh vực kinh tế, đầu tư, thương mại. Trong lĩnh vực tư vấn về pháp luật dân sự thì tư vấn về đất đai, hôn nhân gia đình đang là mảng tư vấn phổ biến và sôi động nhất.

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá, các luật sư hoạt động trong lĩnh vực tư vấn pháp luật đang phát huy vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp đàm phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp phát sinh đặc biệt trong các lĩnh vực mới mẻ như đầu tư nước ngoài, sở hữu trí tuệ, quan hệ thương mại hàng hoá có yếu tố nước ngoài...

Ngoài ra, các luật sư cũng đã tham gia tích cực vào hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng thuộc diện chính sách. Việc tham gia vào hoạt động này không chỉ thực hiện một cam kết mang tính chất nghĩa vụ của luật sư đối với xã hội mà còn góp phần tạo lập sự công bằng cho các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia trợ giúp pháp lý cho hàng chục nghìn vụ việc, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người thuộc diện chính sách.

Có thể nói, mặc dù còn những hạn chế, nhưng hoạt động của luật sư thời gian qua đã đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của công dân và tổ chức, đóng góp đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

-  Về hình thức hành nghề của luật sư

Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư (thành lập hoặc tham gia thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư, kể cả tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Quy định này về cơ bản là phù hợp với thông lệ nghề luật sư và có tính khả thi trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển của nghề luật sư. Tuy nhiên, với yêu cầu mở rộng, phát triển dịch vụ pháp lý của luật sư trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu sắc và mạnh mẽ hiện nay, thì quy định về hình thức hành nghề như Pháp lệnh luật sư đã tỏ ra không còn phù hợp. Và do đó, Luật Luật sư mở rộng hình thức hành nghề của luật sư, theo đó luật sư không chỉ hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư như quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, mà còn được phép hành nghề với tư cách cá nhân dưới hình thức tự mình nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, hoặc làm việc cho cơ quan, tổ chức theo hợp đồng lao động. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động hành nghề và hoạt động theo mô hình hộ kinh doanh cá thể.

- Về hình thức tổ chức hành nghề luật sư

Theo quy định của Luật Luật sư thì tổ chức hành nghề luật sư bao gồm:

+ Văn phòng luật sư là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư  thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân;

+ Công ty luật bao gồm Công ty luật hợp danh và Công ty luật trách nhiệm hữu hạn. So với Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã quy định thêm loại hình Công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Hơn nữa , để phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư còn quy định Công ty luật trách nhiệm hữu hạn có thể là Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

   2.1.3 Về tổ chức luật sư và quản lý luật sư

Pháp lệnh luật sư 2001, Luật Luật sư quy định nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Theo đó, Đoàn luật sư là tổ chức xã hội-nghề nghiệp đại diện, bảo vệ quyền lợi của các luật sư; quản lý hoạt động nghề nghiệp của các luật sư, giám sát việc tuân theo pháp luật và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp; thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các luật sư...

Luật Luật sư đã quy định hệ thống tổ chức luật sư từ trung ương đến các địa phương, đó là Tổ chức luật sư toàn quốc và Đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Với việc quy định về Tổ chức luật sư toàn quốc và nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức này, Luật Luật sư đã tăng cường đáng kể vai trò tự quản của tổ chức luật sư. Cụ thể là Tổ chức luật sư toàn quốc sẽ ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư ( thay thế Quy tắc mẫu do Bộ Tư pháp ban hành như hiện nay ); phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành quy chế tập sự hành nghề luật sư, đào tạo nghề luật sư, kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Tổ chức luật sư toàn quốc còn được giao quyền cấp, thu hồi Thẻ luật sư, quy định mẫu trang phục luật sư tham gia phiên toà… Việc tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề và tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư trong cả nước cũng thuộc thẩm quyền của Tổ chức luật sư toàn quốc. Việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật và các quyết định khác của Ban chủ nhiệm các Đoàn luật sư cũng được giao cho Tổ chức luật sư toàn quốc. Đoàn luật sư và Tổ chức luật sư toàn quốc tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Luật sư và Điều lệ của tổ chức mình. Điều lệ của Đoàn luật sư do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt, Điều lệ của Tổ chức luật sư toàn quốc do Bộ Tư pháp phê duyệt sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

Trong thời gian qua, công tác của các Đoàn luật sư đối với luật sư và hành nghề luật sư đã có nhiều chuyển biến tích cực. Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn được giao, các Đoàn luật sư đã thực hiện tương đối tốt công tác giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Điều lệ Đoàn luật sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp thời nhắc nhở, uốn nắn và có biện pháp xử lý nghiêm minh các trường hợp luật sư vi phạm. Các Đoàn luật sư tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, trợ giúp pháp lý, tư vấn miễn phí, bào chữa miễn phí.

Tuy nhiên, hoạt động tự quản của các Đoàn luật sư còn một số hạn chế, bất cập sau đây:

Thứ nhất, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư còn chưa cao.

Thứ hai, nhìn chung, các Đoàn luật sư chưa thực hiện tốt chức năng đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư. Đoàn luật sư chưa thực sự là nơi tập hợp những bức xúc, khó khăn, vướng mắc, đề xuất, kiến nghị của luật sư liên quan đến hoạt động hành nghề và đại diện cho luật sư trong việc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Thứ ba, một số Đoàn luật sư chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho luật sư; công tác giám sát, quản lý người tập sự hành nghề luật sư còn mang tính hình thức.

Thứ tư, một số Đoàn luật sư phối hợp chưa tốt với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương trong việc quản lý hành nghề luật sư, việc quản lý hành nghề luật sư ở những địa phương này kém hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức và hoạt động luật sư ở địa phương

Về công tác tự quản của tổ chức luật sư, cũng cần nói đến vai trò của các tổ chức hành nghề luật sư. Nhìn chung các tổ chức hành nghề luật sư ở nước ta hiện nay đa phần chỉ là các văn phòng luật sư với quy mô rất nhỏ. Việc tổ chức, điều hành văn phòng luật sư, công ty luật cũng được cải tiến, tiếp cận gần hơn với cách tổ chức, điều hành tiên tiến, hiện đại của các công ty luật ở các nước trên thế giới. Một số tổ chức hành nghề luật sư đã cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho cá nhân, tổ chức nước ngoài, tham gia giải quyết tranh chấp lớn có yếu tố nước ngoài. Một số công ty luật đã có nhu cầu, khả năng và trong thực tế đã thuê luật sư nước ngoài làm việc cho công ty mình.

Tổ chức hành nghề luật sư chịu trách nhiệm trước khách hàng trong trường hợp luật sư của Văn phòng gây thiệt hại cho khách hàng. Chất lượng dịch vụ và uy tín của luật sư chính là chất lượng dịch vụ và uy tín của tổ chức hành nghề luật sư. Chính vì vậy, các tổ chức hành nghề luật sư phải là tổ chức quan tâm đầu tiên đến chất lượng hoạt động luật sư, đến việc bồi dưỡng về chuyên môn, bồi dưỡng, giáo dục và giám sát về đạo đức nghề nghiệp đối với luật sư của tổ chức mình. Trong thời gian qua, đa số các tổ chức hành nghề luật sư đã làm tốt công việc giáo dục, giám sát luật sư trong việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, một số tổ chức hành nghề luật sư chưa thực sự quan tâm đến công việc này, đồng thời có biểu hiện lỏng lẻo trong việc quản lý các luật sư của tổ chức mình, để xảy ra hiện tượng luật sư vi phạm pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà tổ chức không biết hoặc bỏ qua.

Trong thời gian qua việc thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần phát triển số lượng luật sư, nâng cao chất lượng hành nghề luật sư, duy trì việc tuân theo pháp luật, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của luật sư theo đúng định hướng mà Đảng, Nhà nước đã đề ra.

Tuy nhiên trong việc thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư nói riêng và công tác quản lý luật sư nói chung còn nhiều hạn chế.

2.2. Một số phương hướng hoàn thiện pháp luật về Luật sư và hành nghề luật sư ở nước ta

 Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư cả về nghiệp vụ chuyên môn, phẩm chất đạo đức là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài như Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ "đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn". Muốn được như vậy, cần phải phải có một hệ thống pháp luật và quy chế pháp lý hoàn chỉnh để điều chỉnh các hoạt động nghề nghiệp Luật sư trên cơ sở tạo thiết lập một môi trường pháp lý rộng rãi cho tổ chức và hoạt động luật sư phát triển, đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu tư vấn pháp luật của nền kinh tế thị trường, phát huy dân chủ, bảo vệ công lý và công bằng xã hội phải xây dựng được phạm vi và lộ trình hoàn thiện pháp luật về luật sư  phù hợp.

Trên cơ sở đó, một số đề xuất phương hướn hoàn thiện như sau:

Thứ nhất, phương hướng hoàn thiện pháp luật về mặt nội dung và tố tụng liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của luật sư:

+ Xây dựng điều khoản mới về tội danh xâm phạm quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa của công dân trong Bộ luật hình sự; sửa đổi và bổ sung một số quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự về tư cách tham gia tố tụng của luật sư, thời điểm tham gia bào chữa, việc tiếp xúc bị can, bị cáo trong trại tạm giam, quyền điều tra và thu thập chứng cứ, cũng như một số hoạt động nghề nghiệp khác của luật sư; hoàn thiện quy định để từng bước mở rộng tranh tụng tại phiên tòa…

+ Liên quan hoạt động tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác, pháp luật về luật sư cần tập trung vào hai phạm vi là nhất thể hóa hoạt động tư vấn pháp luật vào đối tượng hành nghề chuyên nghiệp là đội ngũ luật sư và thể chế hóa phương hướng tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động luật sư, xây dựng cơ chế pháp lý cho việc tham gia ngày càng nhiều hơn của luật sư trong đàm phán thương mại quốc tế, giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh dịch vụ pháp lý lành mạnh trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc bình đẳng và chủ quyền.

+ Ban hành bộ quy tắc thống nhất về đạo đức nghề nghiệp luật sư và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư.

Hiện nay, đa số luật sư Việt Nam tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư và các quy định của pháp luật liên quan đến tổ chức và hành nghề luật sư. Tuy nhiên,Các quy tắc đó chưa được áp dụng một cách thống nhất, mỗi Đoàn luật sư có một quy tắc đạo đức nghề nghiệp riêng dựa trên bộ quy tắc mẫu, hơn nữa việc tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống. Trên thực tế, vẫn còn một số luật sư quá coi trọng lợi ích vật chất dẫn đến vi phạm các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, thậm chí có luật sư vi phạm pháp luật nghiêm trọng đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy, cần thiết ban hành sớm bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư áp dụng thống nhất trên toàn quốc cùng với những biện pháp bảo đảm tuân thủ đúng đắn.

+ Ban hành các quy định điều chỉnh và giám sát nhằm tiến nội dung, phương pháp để nâng cao chất lương đào tạo nghề luật sư, nâng cao chất lượng tập sự hành nghề luật sư thông qua việc các Đoàn luật sư thực hiện nghiêm túc cơ chế giám sát người tập sự hành nghề luật sư, luật sư hướng dẫn, tổ chức hành nghề luật sư trong việc tuân theo Quy chế tập sự hành nghề luật sư; tạo điều kiện thuận lợi để người tập sự được nghiên cứu, tiếp cận những kiến thức pháp luật mới, đồng thời tạo cơ hội cho người tập sự được trực tiếp tham gia hoạt động nghề nghiệp, nâng cao kỹ năng hành nghề luật sư.

+ Từng bước hoàn thiện các quy định pháp lý về chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư

Hành nghề luật sư là hoạt động đòi hỏi tính trách nhiệm cao, gây thiệt hại là phải bồi thường do vậy luật sư tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là một nghĩa vụ cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề trách nhiệm nghề nghiệp cũng như bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư ở Việt Nam chỉ mới dừng lại trên giấy mà chưa được thực thi. Do đó, cần có những quy định và những biện pháp  cụ thể để sớm áp dụng trong thực tiễn hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm đem lại sự hiệu quả cao nhất cho hoạt động đặc thù này.

Thứ hai, phương hướng về các biện pháp xây dựng cơ chế bảo đảm và quản lý thực thi quá trình hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam:

+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và thể chế hóa về mặt pháp luật chủ trương hoàn thiện pháp luật về luật sư, trong đó cần thiết đưa vào văn kiện của Đảng về chiến lược phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam trong thế kỷ mới.

+ Xây dựng các mô hình tổ chức hành nghề và mô hình quản lý đủ sức đáp ứng nhu cầu dịch vụ pháp lý của công dân, tổ chức; phấn đấu xây dựng đội luật sư đạt cả về số lượng lẫn chất lượng.

+ Gắn việc hoàn thiện pháp luật về luật sư với chiến lược cải cách tư pháp hiện nay.

+ Nâng cao tính đồng bộ trong quá trình hoàn thiện pháp luật về luật sư.

KẾT LUẬN

Pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam, có thể nói từ những văn bản đầu tiên khi có nghề luật sư đến khi có Luật Luật sư ra đời và được áp dụng hiện hành là cả một quá trình, dẫu không thực sự dài nhưng là một bước tiến khá đáng kể của ngày lập pháp nước ta nói chung và trong chế định luật sư nói riêng. Luật luật sư 2006  đánh dấu bước phát triển lớn của chế định luật sư ở Việt Nam đã thể hiện một sự kế thừa sâu rộng và mang tính biện chứng các quy phạm pháp luật về luật sư trước đó.

Có thể khẳng định một cách không quá rằng có được một chế định pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư như hiện nay là ở Việt Nam là một bước phát triển có tính đột phá, tạo cơ sở pháp lý thông thoáng, lành mạnh cả về mô hình tổ chức lẫn phương thức hành nghề thể hiện được những thuộc tính vốn có và cần có của chế định luật sư, đẩy lùi hẳn vào quá khứ những biến dạng mà một thời đã gây nên những phản cảm, ngộ nhận cho chính những luật sư hành nghề và cả sự hiểu nhầm, mặc cảm từ phía người dân khi họ cần đến các luật sư và điều cơ bản, là nhằm đưa mô hình tổ chức và phương thức hành nghề luật sư tiến sát đến mô hình, phương thức phổ biến và cũng đã thành truyền thống đối với nhiều nước.

Tuy nhiên, pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm, cần tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với sự thay đổi của xã hội, của nhu cầu hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay. Những vấn đề đó, một phần đã được người viết thể hiện trong tiểu luận này, phần khác, rất mong được sự chia sẽ, nghiên cứu sâu hơn của các tác giả, những người có cùng sự quan tâm./.

 

Tiểu luận Luật sư và nghề luật sư

Tác giả
Tạp chí
Năm xuất bản 0
Tham khảo

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.
Nếu bạn thấy văn bản này có dấu hiệu vi phạm, vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét và xử lý văn bản này trong thời gian sớm nhất.

VĂN BẢN CÙNG CHỦ ĐỀ