Văn bản "Quyết định 1154/2007/QĐ-VKSTC về Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành" đã HẾT HIỆU LỰC từ ngày 08/10.2012

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1154/2007/QĐ-VKSTC

Hà Nội, ngày 19 tháng 11 năm 2007

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC BAN HÀNH QUY CHẾ VỀ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

- Căn cứ Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.

- Căn cứ Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 và Bộ luật Dân sự năm 2005 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Điều 3. Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

 

 

KT. VIỆN TRƯỞNG
PHÓ VIỆN TRƯỞNG




Khuất Văn Nga

 

QUY CHẾ

CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ, VIỆC DÂN SỰ
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1154 /2007/QĐ-VKSTC ngày 19/11/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao)

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Vị trí

Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) của Toà án nhân dân là một trong những công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự của Toà án có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 2. Đối tượng

Đối tượng của công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự là việc tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự.

Điều 3. Phạm vi công tác

Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự bắt đầu từ khi Toà án thông báo thụ lý vụ việc dân sự và kết thúc khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị.

Điều 4. Nhiệm vụ, quyền hạn

Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ việc dân sự của Toà án.

2. Tham gia phiên toà, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ở các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

3. Tham gia hỏi đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại các phiên toà, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự.

4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên toà, phiên họp của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng.

5. Kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự của Toà án.

6. Yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự; yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng theo khoản 3 Điều 85 Bộ luật Tố tụng Dân sự để thực hiện việc kháng nghị.

7. Yêu cầu Toà án cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.

8. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Toà án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

9. Yêu cầu hoãn thi hành án; quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi thực hiện kháng nghị theo thẩm quyền theo quy định tại Điều 286, Điều 310 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

10. Thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị đối với các vi phạm của Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật.

11. Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tăng cường công tác phát hiện vi phạm về pháp luật nội dung, luật tố tụng để thường xuyên thực hiện kiến nghị với cơ quan xét xử qua từng vụ việc; định kỳ sáu tháng, một năm phải có kiến nghị tổng hợp vi phạm đối với cơ quan xét xử ngang cấp.

Điều 5. Quan hệ công tác

1. Viện trưởng Viện kiểm sát có nhiệm vụ tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ, Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền hạn quy định tại Điều 44 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

2. Kiểm sát viên, Kiểm tra viên được giao nhiệm vụ kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự dưới sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên chịu sự quản lý và chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo đơn vị. Khi thực hiện nhiệm vụ, giữa Kiểm sát viên và lãnh đạo đơn vị có ý kiến khác nhau thì lãnh đạo đơn vị báo cáo Lãnh đạo Viện quyết định. Khi cần thiết, Lãnh đạo Viện yêu cầu các đơn vị chức năng báo cáo các vụ việc dân sự để đảm bảo tính nghiêm minh và kịp thời của hoạt động kiểm sát.

3. Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, cơ quan có liên quan để thực hiện tốt công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự.

Chương II

KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

MỤC 1. KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ

Điều 6. Kiểm sát thông báo thụ lý

Khi nhận được thông báo thụ lý vụ án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải vào sổ thụ lý theo dõi, kiểm tra văn bản thông báo thụ lý theo những nội dung được quy định tại Điều 174 Bộ luật Tố tụng Dân sự; lập phiếu kiểm sát theo dõi vi phạm để tổng hợp kiến nghị với Toà án các vi phạm về thời hạn gửi thông báo, nội dung, hình thức thông báo; theo dõi quyết định chuyển vụ án của Toà án.

Điều 7. Việc tham gia phiên toà, phiên họp của Viện kiểm sát

1. Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm đối với những hồ sơ vụ án mà đương sự có khiếu nại việc thu thập chứng cứ của Toà án.

2. Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp phúc thẩm trong các trường hợp sau:

- Viện kiểm sát cấp sơ thẩm đã tham gia phiên toà sơ thẩm mà đương sự có kháng cáo.

- Vụ án có kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát đối với bản án sơ thẩm.

- Đương sự có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Toà án cấp phúc thẩm.

- Phiên họp phúc thẩm các quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.

3. Viện kiểm sát tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm đối với những vụ án do Chánh án Toà án và Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 292 và Điều 310 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Điều 8. Kiểm sát giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm

1. Khi nhận được đơn khiếu nại của đương sự về việc thu thập chứng cứ của Toà án, Kiểm sát viên phải nghiên cứu, vào sổ thụ lý, báo cáo lãnh đạo Viện để quyết định việc tham gia phiên toà.

Đối với các trường hợp xét thấy cần yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự thì Kiểm sát viên phải có văn bản yêu cầu Toà án thực hiện. Sau khi có kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Toà án thì thông báo bằng văn bản cho Toà án về việc tham gia phiên toà. Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm mà không có kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Toà án thì Kiểm sát viên vẫn phải tham gia phiên toà.

Trong trường hợp Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại của đương sự về việc thu thập chứng cứ sau khi Toà án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà không còn đủ 15 ngày nghiên cứu hồ sơ theo quy định thì Kiểm sát viên xem xét: nếu thấy còn đủ thời gian thì yêu cầu Toà án chuyển hồ sơ để nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Toà án chậm nhất vào trước ngày mở phiên toà.

2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải có quyết định phân công Kiểm sát viên tham gia phiên toà sơ thẩm; trong trường hợp cần thiết phải phân công Kiểm sát viên dự khuyết.

3. Nghiên cứu hồ sơ vụ án và lập hồ sơ kiểm sát

Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án, lập hồ sơ kiểm sát, trích cứu đầy đủ, trung thực lời khai của đương sự và các tài liệu khác; nắm vững nội dung vụ án, yêu cầu khiếu nại của đương sự; phân tích tổng hợp chứng cứ; áp dụng điều, khoản của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan để dự kiến đường lối xử lý vụ án, báo cáo lãnh đạo Viện, chuẩn bị ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên toà.

4. Kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng tại phiên toà

Tại phiên toà, Kiểm sát viên kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng của Hội đồng xét xử, thư ký Toà án và những người tham gia tố tụng.

Kiểm sát viên đề nghị hoãn phiên toà trong những trường hợp mà Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định. Trường hợp Kiểm sát viên đề nghị hoãn phiên toà nhưng Hội đồng xét xử vẫn xét xử thì Kiểm sát viên tiếp tục tham gia phiên toà và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Sau phiên toà phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện để xem xét, quyết định.

Nếu phát hiện có vi phạm về thủ tục tố tụng thì yêu cầu Hội đồng xét xử khắc phục kịp thời.

5. Tham gia hỏi tại phiên toà

Kiểm sát viên phải dự thảo đề cương hỏi và những nội dung cần làm sáng tỏ, dự kiến các tình huống khác có thể phát sinh tại phiên toà. Bản đề cương hỏi phải được lưu trong hồ sơ kiểm sát.

Tại phiên toà Kiểm sát viên chủ động tham gia hỏi nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án; theo dõi, ghi chép đầy đủ nội dung hỏi của Hội đồng xét xử, những người tham gia phiên toà.

6. Phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên toà

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được xem xét kiểm tra tại phiên toà và diễn biến phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Phát biểu của Kiểm sát viên phải đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện các chứng cứ của vụ án; phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự; viện dẫn căn cứ pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử ra bản án, quyết định có căn cứ, đúng pháp luật.

Trong trường hợp tại phiên toà đương sự xuất trình tài liệu mới có thể làm thay đổi quan điểm giải quyết vụ án đã được lãnh đạo Viện cho ý kiến, Kiểm sát viên cần xem xét về nguồn gốc, nội dung tài liệu để có kết luận về tính hợp pháp và có căn cứ của tài liệu, trên cơ sở đó quyết định hướng giải quyết vụ án cho phù hợp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Sau phiên toà phải báo cáo lãnh đạo Viện.

Kiểm sát viên phải chú ý ghi lại những nhận định quan trọng và nội dung quyết định của bản án sơ thẩm để làm căn cứ kiểm tra biên bản phiên toà. Ngay sau khi kết thúc phiên toà, nếu thấy cần thiết Kiểm sát viên xem xét biên bản phiên toà, yêu cầu ghi những sửa đổi bổ sung vào biên bản phiên toà (nếu có) và kí xác nhận theo quy định tại khoản 4 Điều 211 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

7. Sau phiên toà

Báo cáo kết quả phiên toà với lãnh đạo Viện, đề xuất kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm khi xét thấy bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về nội dung hoặc về thủ tục tố tụng. Nếu hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp mà phát hiện vi phạm pháp luật thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Nếu hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cấp trên mà phát hiện bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết mới thì Kiểm sát viên đề xuất với lãnh đạo Viện báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm kèm theo các tài liệu có liên quan.

Sau khi nhận được bản án, quyết định sơ thẩm, thông báo về việc kháng cáo của Toà án cấp sơ thẩm, Viện kiểm sát cấp sơ thẩm phải sao gửi ngay cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để kiểm tra xem xét.

Điều 9. Kiểm sát giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm

1. Thẩm quyền kháng nghị

Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện được Viện trưởng uỷ nhiệm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.

Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh được Viện trưởng uỷ nhiệm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân cấp huyện.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh.

2. Quyết định kháng nghị

Quyết định kháng nghị phải nêu cụ thể những vi phạm pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm. Kháng nghị phải thể hiện đầy đủ nội dung quy định tại Điều 251 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Thời hạn kháng nghị thực hiện theo quy định tại Điều 252 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Viện kiểm sát không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án, do đó Kiểm sát viên cần kiểm sát chặt chẽ thời hạn gửi bản án của Toà án theo Điều 241 Bộ luật Tố tụng Dân sự để thực hiện thẩm quyền kháng nghị. Trong trường hợp cần thiết để thực hiện việc kháng nghị, Viện kiểm sát yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng theo quy định tại khoản 3 Điều 85 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Kháng nghị của Viện kiểm sát phải được gửi đến Toà án sơ thẩm cùng cấp; các đương sự có liên quan theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (nếu kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp thì gửi cho Viện kiểm sát cấp sơ thẩm) để theo dõi.

3. Nghiên cứu hồ sơ vụ án bị kháng cáo, kháng nghị và lập hồ sơ kiểm sát

Kiểm sát viên tham gia phiên toà phúc thẩm phải trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án và lập hồ sơ kiểm sát đối với những trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà; xem xét lý do kháng cáo, kháng nghị, thủ tục kháng cáo, kháng nghị; đơn khiếu nại của đương sự về việc thu thập chứng cứ của Toà án ở cấp phúc thẩm (nếu có).

Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải trích cứu đầy đủ các lời khai của đương sự, những người tham gia tố tụng, các tài liệu liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, đề xuất hướng giải quyết vụ án, báo cáo lãnh đạo Viện cho ý kiến.

Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án thực hiện đúng thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 262 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

4. Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị

Trước khi mở phiên toà, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban đầu nếu thời hạn kháng nghị đã hết.

Viện kiểm sát đã kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thể rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị theo quy định tại Điều 256 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị phải do Viện trưởng quyết định bằng văn bản gửi Toà án cấp phúc thẩm và các đơn vị liên quan theo quy định tại khoản 2 Điều này.

Nếu Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp rút kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới phải trao đổi trước với Viện trưởng Viện kiểm sát cấp sơ thẩm đã kháng nghị; nếu không nhất trí thì Viện kiểm sát cấp trên thực hiện quyết định của mình và chịu trách nhiệm về quyết định đó.

Tại phiên toà, việc rút kháng nghị do Kiểm sát viên tham gia phiên toà quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Sau phiên toà phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện, lãnh đạo đơn vị và thông báo cho Viện kiểm sát đã kháng nghị biết.

5. Phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên toà

Kiểm sát viên phải chuẩn bị bản dự thảo ý kiến của Viện kiểm sát để tham gia phiên toà. Căn cứ vào diễn biến phiên toà, những chứng cứ đã được thẩm tra xem xét tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày ý kiến, phân tích làm rõ tính hợp pháp, có căn cứ của kháng cáo, kháng nghị.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên có quyền xuất trình, bổ sung chứng cứ và những tài liệu để làm rõ kháng nghị, phân tích làm sáng tỏ quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát đối với những vi phạm pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm; đề nghị hướng giải quyết cụ thể đối với bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp tại phiên toà có những tài liệu mới có thể thay đổi quan điểm giải quyết vụ án đã được lãnh đạo Viện cho ý kiến thì Kiểm sát viên quyết định hướng giải quyết phù hợp và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Sau phiên toà phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện và lãnh đạo đơn vị.

6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án

Khi tham gia phiên toà phúc thẩm theo Điều 264 Bộ luật Tố tụng Dân sự, phiên họp phúc thẩm theo Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án cấp phúc thẩm về thời hạn xét xử phúc thẩm, thành phần Hội đồng xét xử, sự có mặt của những người tham gia phiên toà, phiên họp phúc thẩm, việc hoãn phiên toà, phiên họp, ghi chép đầy đủ diễn biến và kết quả phiên toà, phiên họp.

Việc kiểm tra biên bản phiên toà thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 8 Quy chế này.

Sau phiên toà, phiên họp phúc thẩm, Kiểm sát viên báo cáo kết quả xét xử với lãnh đạo Viện; nghiên cứu đề xuất kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong trường hợp xét thấy bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Kiểm sát chặt chẽ việc gửi bản án, quyết định phúc thẩm theo đúng thời hạn quy định tại Điều 281 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Điều 10. Kiểm sát việc giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm

1. Nguồn phát hiện vi phạm pháp luật

Kiểm sát viên nghiên cứu phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật căn cứ vào các nguồn sau đây:

Báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.

Đơn đề nghị của đương sự hoặc kiến nghị của các cơ quan tổ chức.

Thông qua kiểm tra nghiệp vụ phát hiện bản án, quyết định có vi phạm nghiêm trọng việc áp dụng pháp luật.

2. Yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án

Khi cần xem xét bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Kiểm sát viên làm văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định đó chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để xem xét, giải quyết.

3. Nghiên cứu hồ sơ vụ án, lập hồ sơ kiểm sát

Kiểm sát viên, Kiểm tra viên khi nghiên cứu hồ sơ vụ án yêu cầu phải lập hồ sơ kiểm sát. Nếu có căn cứ xác định bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định thì đề xuất với lãnh đạo đơn vị báo cáo lãnh đạo Viện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Đối với bản án, quyết định do Chánh án Toà án kháng nghị, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên nghiên cứu hồ sơ, kiểm tra bản án, quyết định và kháng nghị của Chánh án, đề xuất quan điểm nhất trí hoặc không nhất trí với kháng nghị.

Việc nghiên cứu hồ sơ phải đảm bảo thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

4. Về thẩm quyền kháng nghị

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Viện trưởng uỷ nhiệm kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân các cấp, trừ quyết định của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao theo quy định tại khoản 1 Điều 285, khoản 1 Điều 307 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh được Viện trưởng uỷ nhiệm kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện theo quy định tại khoản 2 Điều 285, khoản 2 Điều 307 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

5. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm

Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm quy định tại Điều 283, Điều 305 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm phải nêu rõ và phân tích những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định. Nội dung kháng nghị thực hiện theo quy định tại Điều 287, Điều 310 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thực hiện đúng thời hạn theo quy định tại Điều 288, Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 286, khoản 3 Điều 307 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm phải được gửi cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm; Toà án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền; các đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 290 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đồng thời gửi Viện kiểm sát cấp trên để báo cáo, gửi Viện kiểm sát cấp dưới (nơi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật) để theo dõi.

6. Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị

Trước khi mở phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm; Viện trưởng Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị (nếu chưa hết thời hạn kháng nghị) hoặc rút kháng nghị theo quy định tại Điều 289 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Quyết định thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị phải bằng văn bản, nêu rõ lý do. Việc gửi quyết định thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 10 Quy chế này.

Tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm, nếu phát sinh tài liệu, tình tiết mới có thể dẫn tới việc thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị thì Kiểm sát viên đề nghị hoãn phiên toà, báo cáo Viện trưởng xem xét, quyết định.

7. Tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm

Kiểm sát viên tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án cùng cấp. Trước khi tham gia phiên toà, phải chuẩn bị dự thảo bài phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát. Dự thảo phát biểu phải thể hiện chính xác quan điểm của Viện kiểm sát, dự kiến những vấn đề có thể phát sinh tại phiên toà.

Căn cứ vào những chứng cứ trong hồ sơ đã được thẩm tra, xem xét tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đánh giá tính có căn cứ và hợp pháp của kháng nghị, phân tích làm rõ quan điểm đối với những vi phạm pháp luật nghiêm trọng của bản án, quyết định; đề nghị hướng giải quyết cụ thể đối với bản án, quyết định bị kháng nghị. Phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát phải lưu trong hồ sơ kiểm sát.

Đối với kháng nghị của Chánh án Toà án, Kiểm sát viên phải nêu rõ lý do nhất trí hoặc không nhất trí kháng nghị. Trong trường hợp có những tài liệu mới phát sinh tại phiên toà có thể làm thay đổi quan điểm giải quyết vụ án đã được Viện trưởng Viện kiểm sát cho ý kiến thì Kiểm sát viên quyết định hướng xử lý vụ án và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; sau phiên toà báo cáo ngay với lãnh đạo Viện.

Khi tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm về thời hạn xét xử, thành phần Hội đồng xét xử, trình tự, thủ tục phiên toà, việc biểu quyết của Hội đồng xét xử; ghi chép đầy đủ diễn biến phiên toà, quá trình thảo luận và kết quả phiên toà.

8. Sau phiên toà, Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện và lãnh đạo đơn vị về kết quả xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm; theo dõi việc ban hành quyết định và gửi các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án; thông báo kết quả xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm và sao gửi quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm cho Viện kiểm sát nơi có bản án, quyết định bị kháng nghị.

Điều 11. Kiểm sát bản án, quyết định của Toà án

1. Kiểm sát các quyết định của Toà án để thực hiện quyền kiến nghị

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kiểm sát đối với: Quyết định nhập hoặc tách vụ án (khoản 3 Điều 38 Bộ luật Tố tụng Dân sự); Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 123 Bộ luật Tố tụng Dân sự); Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm (Điều 195 Bộ luật Tố tụng Dân sự); Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm (Điều 258 Bộ luật Tố tụng Dân sự); Quyết định hoãn phiên toà sơ thẩm (Điều 208 Bộ luật Tố tụng Dân sự); Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm (Điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự).

Khi nhận được các quyết định trên, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát phải vào sổ theo dõi, lập phiếu kiểm sát đối với từng loại quyết định để xác định vi phạm; kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định như: thời hạn Toà án gửi quyết định cho Viện kiểm sát; nội dung, hình thức của các quyết định có đầy đủ theo quy định hay không; nếu có vi phạm thì kiến nghị với Toà án đối với từng vụ việc hoặc tập hợp kiến nghị chung.

2. Kiểm sát bản án, quyết định của Toà án để thực hiện quyền kháng nghị

Viện kiểm sát thực hiện quyền kiểm sát đối với: Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự; Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; Bản án sơ thẩm; Bản án phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm; Quyết định tái thẩm.

Khi nhận được các loại quyết định và bản án nói trên, Kiểm sát viên được phân công phải mở sổ theo dõi, lập phiếu kiểm sát, kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định. Nếu phát hiện có vi phạm về hình thức như: Toà án không gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát hoặc gửi không đúng thời hạn, nội dung, hình thức bản án, quyết định không đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì tập hợp để kiến nghị. Nếu phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì báo cáo Viện trưởng kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ; bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật) hoặc đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (đối với quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự; bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật hoặc bản án, quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Trong quá trình kiểm sát bản án, quyết định, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng theo quy định tại khoản 3 Điều 85 Bộ luật Tố tụng Dân sự để bảo đảm thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc yêu cầu cung cấp tài liệu thực hiện bằng văn bản hoặc mời trực tiếp theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

MỤC 2. KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ

Điều 12. Kiểm sát giải quyết các việc dân sự thuộc thẩm quyền của Toà án

Các việc dân sự do Toà án giải quyết thuộc đối tượng kiểm sát bao gồm:

Các yêu cầu về dân sự quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Các yêu cầu về hôn nhân gia đình quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Các yêu cầu về lao động quy định tại Điều 32 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Điều 13. Kiểm sát thông báo thụ lý

Hoạt động kiểm sát thông báo thụ lý việc dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 6 Quy chế này đối với vụ án dân sự.

Điều 14. Kiểm sát phiên họp

Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên họp giải quyết việc dân sự.

Các hoạt động nghiệp vụ trước khi mở phiên họp, tại phiên họp và sau phiên họp, Kiểm sát viên căn cứ các Điều 313, Điều 314, Điều 315 Bộ luật Tố tụng Dân sự để thực hiện theo quy định tại Điều 8 Quy chế này đối với phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật về trình tự, thủ tục, thành phần giải quyết việc dân sự. Về thành phần giải quyết việc dân sự được quy định tại Điều 55 Bộ luật Tố tụng Dân sự, cụ thể là:

Những việc dân sự quy định tại khoản 5 Điều 26, khoản 6 Điều 28, khoản 2 và 3 Điều 30, Điều 32 Bộ luật Tố tụng Dân sự hoặc việc xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết việc dân sự do Hội đồng gồm ba Thẩm phán giải quyết. Các việc dân sự không thuộc trường hợp trên do một Thẩm phán giải quyết. Thành phần giải quyết các việc về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng Dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.

Sau phiên họp, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Toà án gửi quyết định giải quyết việc dân sự trong thời hạn năm ngày làm việc theo quy định tại Điều 315 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Điều 15. Kiểm sát việc giải quyết quyết định việc dân sự bị kháng cáo, kháng nghị

1. Về thẩm quyền kháng nghị, thực hiện như quy định tại Điều 9 Quy chế này. Các quyết định giải quyết việc dân sự: yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì không kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

2. Thời hạn kháng nghị:

Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự trong thời hạn 7 ngày, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định theo quy định tại khoản 2 Điều 317 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Đối với quyết định về việc xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và quyết định xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài thì thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định theo quy định tại khoản 2 Điều 358 và khoản 2 Điều 372 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

3. Quyết định kháng nghị và việc gửi kháng nghị thực hiện theo quy định tại Điều 9 Quy chế này đối với kháng nghị trong vụ án dân sự.

4. Tham gia phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự

Kiểm sát viên phải tham gia các phiên họp xét kháng cáo, kháng nghị giải quyết các việc dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 21; khoản 2 Điều 359; Điều 363; khoản 2 Điều 373 Bộ luật Tố tụng Dân sự và khoản 2 Điều 55 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.

Hoạt động của Kiểm sát viên trước, trong và sau phiên họp phúc thẩm thực hiện theo quy định tại Điều 9 Quy chế này về kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm.

Chương III

TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT ĐƠN KHIẾU NẠI

Điều 16. Tiếp nhận, giải quyết đơn khiếu nại của đương sự về việc thu thập chứng cứ của Toà án

Khi nhận được đơn của đương sự khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Toà án thì trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn,Viện kiểm sát phải chuyển bản sao đơn khiếu nại (có đóng dấu xác nhận của Viện kiểm sát) cho Toà án để giải quyết theo thẩm quyền, và có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Toà án biết về việc tham gia phiên toà của Viện kiểm sát.

Trong trường hợp cần thiết Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác minh thu thập chứng cứ trên cơ sở đơn khiếu nại của đương sự theo quy định tại khoản 3 Điều 85 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Điều 17. Tiếp nhận và giải quyết đơn khiếu nại đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

1. Khi nhận đơn khiếu nại của đương sự về bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cùng cấp thì Kiểm sát viên thụ lý đơn, kiểm tra hồ sơ vụ án; nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì báo cáo Viện trưởng để báo cáo Viện kiểm sát cấp trên xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (kèm theo hồ sơ vụ án do Toà án lập).

2. Các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện kiểm sát tối cao khi nhận đơn khiếu nại thì chuyển cho Vụ 5 và Vụ 12 xem xét, kiểm tra, nếu phát hiện bản án, quyết định có dấu hiệu vi phạm thì yêu cầu Toà án chuyển hồ sơ nghiên cứu, báo cáo lãnh đạo Viện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Nếu bản án, quyết định đúng pháp luật thì trả lời cho đương sự theo thẩm quyền.

Trong trường hợp đơn khiếu nại đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà Viện kiểm sát địa phương không tham gia phiên toà thì Vụ 5, Vụ 12 xem xét chuyển đơn cho Viện kiểm sát nơi có bản án, quyết định để Viện kiểm sát kiểm tra về tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định đó theo quy định tại Điều 281, Điều 284 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án báo cáo Viện trưởng. Nếu thấy bản án, quyết định có căn cứ thì Viện trưởng báo cáo Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lời đương sự. Nếu phát hiện có vi phạm cần kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét kháng nghị (kèm theo hồ sơ vụ án do Toà án lập).

Chương IV

CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ, CHỈ ĐẠO

Điều 18. Lập hồ sơ kiểm sát các vụ việc dân sự

Quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, Kiểm sát viên bắt buộc phải lập hồ sơ kiểm sát ở tất cả các thủ tục: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc lập hồ sơ kiểm sát thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Hồ sơ kiểm sát phải được quản lý chặt chẽ theo đúng quy định của Nhà nước và của ngành Kiểm sát về quản lý, lưu trữ tài liệu.

Điều 19. Chế độ báo cáo án

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về việc giải quyết vụ án.

Việc báo cáo án phải bằng văn bản ghi rõ tóm tắt nội dung, hệ thống chứng cứ, quá trình tố tụng, nội dung án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, quan điểm đề xuất đường lối giải quyết vụ án. Các ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải ghi chép đầy đủ và lưu hồ sơ kiểm sát.

Điều 20. Chế độ quản lý

Viện kiểm sát các cấp phải quản lý chặt chẽ hoạt động của mình trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh quản lý tình hình và kết quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quản lý tình hình và kết quả hoạt động của toàn ngành.

Về chế độ sổ sách, biểu mẫu thống kê vụ việc dân sự tuân theo quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Điều 21. Chế độ báo cáo, thỉnh thị

Chế độ báo cáo thỉnh thị thực hiện đúng theo Quy chế về chế độ báo cáo thông tin của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Văn bản báo cáo thỉnh thị hoặc đề nghị kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới phải do lãnh đạo Viện ký. Việc trả lời thỉnh thị của Viện kiểm sát cấp trên phải kịp thời và do lãnh đạo đơn vị ký.

Đối với những trường hợp báo cáo đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của các Viện kiểm sát địa phương và các Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, chậm nhất 03 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án do Toà án lập kèm công văn đề nghị; Viện kiểm sát cấp trên phải trả lời về việc có kháng nghị hay không. Hết thời hạn nói trên nếu chưa trả lời kịp phải thông báo rõ lý do.

Điều 22. Chế độ thông báo nghiệp vụ

1. Định kỳ 06 tháng, 01 năm hoặc khi cần thiết Viện kiểm sát cấp trên ra thông báo nghiệp vụ về kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát cấp dưới rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiệp vụ.

2. Viện kiểm sát cấp trên tăng cường tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, xây dựng các chuyên đề và các văn bản nghiệp vụ nâng cao trình độ, nhận thức cho cán bộ làm công tác kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự trong toàn ngành.

Điều 23. Chế độ kiểm tra

Viện kiểm sát cấp trên tổ chức kiểm tra định kỳ và đột xuất đối với Viện kiểm sát cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự nhằm rút kinh nghiệm và chỉ đạo hướng dẫn về công tác nghiệp vụ cho toàn ngành. Hoạt động kiểm tra thực hiện đúng theo quy chế về kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân.

Điều 24. Chế độ bảo vệ bí mật tài liệu

Viện kiểm sát các cấp phải quản lý chặt chẽ hồ sơ vụ việc dân sự, hồ sơ kiểm sát và các tài liệu liên quan. Việc giao nhận hồ sơ phải có biên bản và theo đúng thủ tục quy định.

ý kiến chỉ đạo giải quyết vụ việc dân sự của lãnh đạo Viện phải được giữ bí mật, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ đối với vụ việc dân sự của Viện kiểm sát cấp trên lưu vào hồ sơ kiểm sát, không đưa vào hồ sơ chính.

Điều 25. Chấp hành kỷ luật nghiệp vụ

Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về kỷ luật nghiệp vụ của ngành. Khi có vi phạm thì xem xét xử lý nghiêm minh.

Chương V

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 26. Tổ chức thực hiện

1. Quy chế công tác kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện thống nhất trong toàn ngành. Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tổ chức nghiên cứu và triển khai thực hiện nghiêm túc Quy chế.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, bố trí cán bộ, cơ sở vật chất, ổn định khâu công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự theo quy định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Thủ trưởng các đơn vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình có nhiệm vụ tổ chức thực hiện và hướng dẫn, theo dõi việc thực hiện đúng Quy chế, nhằm góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành.

Điều 27. Hiệu lực thi hành

Quy chế này có hiệu lực thi hành từ ngày ký và thay thế Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự ban hành kèm theo Quyết định số 01/DS-QC ngày 08/04/1994 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phần quy định về công tác kiểm sát giải quyết các vụ án kinh tế, lao động, quy định việc công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài, công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài trong Quy chế nghiệp vụ công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, lao động, kinh tế và những việc khác theo quy định của pháp luật ban hành kèm theo Quyết định số 56/QĐ-V12 ngày 22/12/1999 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Việc sửa đổi, bổ sung Quy chế do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định.

THEGIOILUAT.VN
Hết hiệu lực
Hết HL: 08/10/2012

Tiếng Việt

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

English

Bạn vui lòng đăng nhập để download tài liệu, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và chỉ nhằm quản lý và hỗ trợ người dùng trên hệ thống. Xin cám ơn.

Quyết định 1154/2007/QĐ-VKSTC về Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 1154/2007/QĐ-VKSTC Ngày ban hành 19/11/2007
Ngày có hiệu lực 19/11/2007 Ngày hết hiệu lực 08/10/2012
Nơi ban hành Viện kiểm sát nhân dân tối cao Tình trạng Hết hiệu lực

Tóm tắt nội dung

Quyết định 1154/2007/QĐ-VKSTC về Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
Mục lục

Mục lục

Close