Câu hỏi:
Sau khi mẹ
tôi mất, cha tôi đi thêm bước nữa nhưng hai người không
đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống, hai người
không phát sinh tài sản, người đó có 01 đứa con gái riêng. Vậy
khi cha tôi mất, phần tài sản của cha tôi có phân chia
cho người vợ kế và con gái riêng của bà hay không?
Trên cơ sở đó,
chúng tôi sẽ đưa ra nội dung tư vấn để giải đáp
thắc mắc của anh/chị (anh) đối với
vấn đề nêu trên. Sau đây là nội dung tư vấn:
I. CĂN
CỨ PHÁP LÝ:
Để đưa ra ý
kiến tư vấn cho Quý khách hàng, chúng tôi đã nghiên
cứu các văn bản quy phạm pháp luật như sau:
- Bộ luật dân sự 2015 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015;
-
Nghị
quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam
II. Ý KIẾN TƯ VẤN:
Đối với trường hợp
của anh/chị, anh/chị chưa nói rõ việc kết
hôn giữa Cha bạn và người vợ sau là diễn ra trước
hay sau ngày 01 tháng 3 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình
năm 1986 nên chưa xác định được pháp luật có coi 2 người
là vợ chồng hay không nên chúng tôi đặt ra giả định
trong trường hợp này là việc kết hôn ra sau ngày 01
tháng 3 năm 1987.
Vì việc sống chung giữa
cha anh/chị và người vợ thứ hai diễn ra sau ngày 01
tháng 3 năm 1987 theo quy định Tại khoản 3 Nghị quyết
35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn
về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy thực
hiện như sau:
“… c) Kể từ ngày 1/1/2001
trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm
a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn, đều không được pháp luật chấp
nhận là vợ chồng…”.
ð Như
vậy, trường hợp
của người vợ thứ 2 của cha anh/chị sẽ
không được hưởng di sản thừa kế của cha
anh/chị
“Con riêng và bố dượng, mẹ
kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha
con, mẹ con thì được thừa kế di sản của
nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định
tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.
ð Như
vậy, đối với trường
hợp người con riêng này nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi
dưỡng như cha con thì vẫn được hưởng di
sản thừa kế từ cha bạn để lại.
III. LƯU Ý:
Ý
kiến của chúng tôi chỉ áp dụng riêng cho Quý
khách hàng tại thời điểm chúng tôi đưa ra ý kiến
tư vấn trên.
Ý
kiến của chúng tôi được đưa ra trên
cơ sở pháp luật Việt Nam và thông tin do chính Quý
khách hàng cung cấp. Trong trường hợp Quý khách hàng
có thắc mắc, vui lòng liên hệ ngay với chúng tôi
để được hỗ trợ.
Trân trọng cảm ơn!