TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TÒA KINH TẾ

--------------------- Quyết định giám đốc thẩm Số: 09/2008/KDTM-GĐT Ngày: 03/6/2008

V/v: “Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ

giao nhận hàng hóa”.

 

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------------------------

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 

TÒA KINH TẾ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

 

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:        1. Ông Nguyễn Ngọc T

Các Thẩm phán:                                 2. Ông Nguyễn Ngọc M

3. Bà Hoàng Thị D

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Văn K, Thẩm tra viên chính Tòa án nhân dân tối cao.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Đoàn Ngọc T-Kiểm

sát viên.

Họp phiên tòa ngày 03 tháng 6 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, để giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại về “Tranh chấp đòi tiền cước vận chuyển” hàng hóa bằng đường hàng không, mà Tòa án nhân dân thành phố HCM đã xét xử sơ thẩm tại bản án số 475/KDTM-ST ngày 21/9/2006 (có hiệu lực pháp luật từ ngày 12/4/2007) giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

NĐ_Công ty liên doanh Hải Âu

Trụ sở tại: Phòng 306, lầu 3, số 02 TS, quận X, thành phố HCM

Do ông Châu Quốc Bảo đại diện theo giấy ủy quyền ngày 20/02/2006 của Giám đốc NĐ_Công ty liên doanh Hải Âu.

Bị đơn:

BĐ_công ty trách nhiệm hữu hạn Chin Chang

Trụ sở tại: E4/48 phường BTĐ, huyện BC, thành phố HCM.

Do bà Kim Tea Hea, Phó tổng giám đốc làm đại diện theo giấy ủy quyền ngày

28/3/2006 của Tổng giám đốc BĐ_công ty trách nhiệm hữu hạn Chin Chang Co., Ltd.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

LQ_công ty C.N Blue

Trụ sở tại: 23 B-Dong, Champselysees Center, 89-5, Deachy-Dong, Kangnam-Ku,

Seoul, Hàn Quốc.

Do có Quyết định kháng nghị số 05/KN-VKSTC-V12 ngày 28/3/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

NHẬN THẤY:

Ngày 19/9/2005, NĐ_Công ty liên doanh Hải Âu (viết tắt là NĐ_Hải Âu) có đơn khởi kiện (BL 148-146) đối với bị đơn là BĐ_công ty trách nhiệm hữu hạn Chin Chang (viết tắt là CC-HH) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là LQ_công ty C.N Blue (viết tắt là LQ_CNB) để đòi tiền cước vận chuyển hàng hóa còn thiếu.

Trình bày của nguyên đơn:

Ngày 28/02/2004, CC-HH và NĐ_Hải Âu có ký với nhau “Hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa”, theo đó NĐ_Hải Âu sẽ chở một lô hàng may mặc từ thành phố HCM, Việt Nam sang Miami, Florida, Hoa Kỳ. Hợp đồng này được thể hiện bằng một Phiếu yêu cầu chuyên chở ngày 26/02/2004 của CC-HH (BL.54-51) và thư xác nhận ngày 28/02/2004 của NĐ_Hải Âu (BL.84-83).

Thực hiện hợp đồng, NĐ_Hải Âu đã vận chuyển lô hàng đi Miami, Florida, Hoa Kỳ, theo vận đơn hàng không (AWB) số NĐ_Hải Âu-400053 ngày 03/3/2004 (BL.78-73) trên chuyến bay 0Z392 và OZ222 ngày 03/3/2004 đến Hoa Kỳ và giao cho người nhận hàng ghi trên vận đơn một cách an toàn. Cước phí vận chuyển lô hàng trên là 61.395,20USD.

Sau khi NĐ_Hải Âu hoàn tất nghĩa vụ giao hàng, phía CC-HH mới thanh toán tiền cước vận chuyển được 33.000USD thông qua LQ_CNB, cụ thể: Ngày 05/5/2004 trả

20.000USD, ngày 04/6/2004 trả 8.000USD và ngày 21/9/2004 trả 5.000USD. Hiện còn nợ

28.395,20USD chưa thanh toán (BL.63).

Ngày 21/10/2004, NĐ_Hải Âu có văn bản yêu cầu CC-HH (người chính thức có quan hệ hợp đồng với NĐ_Hải Âu) phải chịu trách nhiệm trả số tiền 28.395,20USD (BL.80).

NĐ_Hải Âu yêu cầu Tòa án xét xử buộc CC-HH phải trả cho NĐ_Hải Âu số tiền còn nợ là 28.395,20USD và tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

 

Trình bày của bị đơn:

CC-HH xác nhận có yêu cầu NĐ_Hải Âu vận chuyển bằng đường hàng không lô hàng may mặc mà CC-HH gia công cho LQ_CNB (BBPTST-BL.163; 208), nhưng cho rằng mình không có trách nhiệm thanh toán số tiền cước vận chuyển còn thiếu này vì điều khoản thanh  toán  ghi  trên  yêu  cầu  vận  chuyển  của  CC-HH  gửi  cho  NĐ_Trường  An  ngày

26/02/2004 (được NĐ_Hải Âu chấp nhận ngày 28/02/2004) và trong vận đơn hàng không đã ghi rõ “cước phí trả trước bởi LQ_công ty C.N Blue” (BL.75). Do đó, LQ_CNB mới là người có trách nhiệm thanh toán cước phí vận chuyển cho NĐ_Hải Âu và phải thanh toán trước khi vận chuyển. CC-HH chỉ ký hợp đồng gia công cho LQ_CNB và không nhận được bất kỳ L/C nào từ người thụ hưởng và cũng không ký hợp đồng FOB. Vì vậy, CC-HH không có trách nhiệm thanh toán cước phí vận chuyển.

NĐ_Hải Âu cung cấp vận đơn hàng không cho lần xuất hàng ngày 03/3/2004, nhưng không gửi cho CC-HH bất kỳ hóa đơn nào. NĐ_Hải Âu đã nhận được 33.000USD cước phí vận chuyển từ LQ_CNB và số cước phí vận chuyển còn lại là 28.395,20USD cũng vẫn do LQ_CNB có trách nhiệm thanh toán tiếp cho NĐ_Hải Âu.

Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 475/KDTM-ST ngày 21/9/2006 (BL.176-169), Tòa án nhân dân thành phố HCM đã xử:

Chấp nhận yêu cầu của NĐ_Công ty liên doanh Hải Âu , buộc BĐ_công ty trách nhiệm    hữu  hạn  Hyung  San  phải  trả  cho  NĐ_Công  ty  liên  doanh  Trường  An  số  tiền

 

28.395,20 USD theo tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam quy định vào thời điểm trả tiền.

Về án phí:

BĐ_công ty trách nhiệm hữu hạn Chin Chang phải chịu án phí là 16.668.000 đồng, nộp tại Thi hành án dân sự thành phố HCM.

Hoàn trả cho NĐ_Công ty liên doanh Hải Âu số tiền tạm ứng án phí đã nộp là

8.229.615 đồng theo biên lai thu tiền số 000669 ngày 11/11/2005 của Thi hành án dân sự thành phố HCM.

 

Ngày 04/10/2006, CC-HH có đơn kháng cáo.

 

Tại Quyết định phúc thẩm số 32/2007/QĐ-PT ngày 12/4/2007 (BL.219-218), Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM đã đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án “Tranh chấp đòi tiền cước vận chuyển” với lý do: Người kháng cáo là BĐ_công ty trách nhiệm hữu hạn Chin Chang đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt; bản án dân sự sơ thẩm số 475/KDTM-ST ngày 21/9/2006 của Tòa án nhân dân thành phố HCM có hiệu lực pháp luật.

Khi nhận được quyết định phúc thẩm nêu trên, BĐ_công ty trách nhiệm hữu hạn Chin Chang có đơn đề nghị xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm đối với bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật số 475/KDTM-ST ngày 21/9/2006 của Tòa án nhân dân thành phố

HCM.

Tại Quyết định số 05/KN-VKSTC-V12 ngày 28/3/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

Bản án xác định LQ_CNB là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng. Lẽ ra trong trường hợp này Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện và hướng dẫn NĐ_Hải Âu khởi kiện LQ_CNB mới đúng quan hệ pháp luật.

Về nội dung:

Bản án sơ thẩm áp dụng Điều 59 Luật hàng không dân dụng năm 2001, có hiệu lực từ

01/6/2002 để xét xử là không chính xác vì không có đạo luật này.

Việc áp dụng Luật hàng không dân dụng để điều chỉnh quan hệ giữa NĐ_Hải Âu

và CC-HH là không chính xác, mà phải áp dụng Bộ Luật dân sự 1995 tại các Điều 53 Khoản 1 Điều 541. Quan hệ giữa NĐ_Hải Âu và Hãng hàng không trực tiếp vận chuyển lô hàng mới thuộc sự điều chỉnh của Luật hàng không dân dụng.

Với những nhận định trên, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 475/KDTM-ST ngày 21/9/2006 của Tòa án nhân dân thành phố HCM. Đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xử giám đốc thẩm, hủy bản án sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố HCM xét xử sơ

thẩm lại theo quy định của pháp luật.

 

XÉT THẤY

1. Về thủ tục tố tụng:

 

Về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các đương sự:

Tòa án cấp sơ thẩm xác định NĐ_Hải Âu (người khởi kiện) là nguyên đơn, CC-HH (người bị nguyên đơn khởi kiện) là bị đơn và LQ_CNB (người không khởi kiện, không bị kiện nhưng nguyên đơn đề nghị tham gia tố tụng) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng với quy định tại Điều 56 BLTTDS. Tòa án không được tùy tiện thay đổi tư cách tham gia tố tụng của các đương sự.

Tòa án cấp sơ thẩm không trả lại đơn khởi kiện, mà tiến hành thụ lý giải quyết vụ án là đúng với quy định tại Khoản 1 Điều 168 BLTTDS.

Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về phần này của Quyết định kháng nghị.

Về giá trị chứng cứ của các tài liệu có trong hồ sơ vụ án:

Hầu hết các tài liệu có trong hồ sơ vụ án không có giá trị chứng cứ vì không được giao nộp, thu thập theo trình tự, thủ tục quy định tại BLTTDS (Điều 81). Cụ thể: Hầu hết các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đều là các bản sao không có công chứng, chứng thực hợp pháp (vi phạm Khoản 1 Điều 83 BLTTDS); Hầu hết các bản dịch có trong hồ sơ vụ án đều được dịch từ các bản sao không hợp pháp trên và đều không được công chứng, chứng thực dịch thuật hợp pháp (vi phạm quy định tại Khoản 3 Điều 84 BLTTDS).

2. Về nội dung:

Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Luật hàng không dân dụng 2001, có hiệu lực pháp luật từ

01/6/2002 để giải quyết vụ án là không đúng, không có đạo luật này. Trên thực tế chỉ có Luật hàng không dân dụng 1991, có hiệu lực từ ngày 01/6/1992. Đến năm 1995, Luật này được sửa đổi bổ sung và sau này được thay thế bằng Luật hàng không dân dụng năm 2006.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ giữa CC-HH và NĐ_Hải Âu là quan hệ hợp đồng vận chuyển hàng không, để rồi áp dụng Luật hàng không dân dụng trong giải quyết vụ án là không đúng. Trong vụ án này, chính NĐ_Hải Âu mới là “người gửi hàng” ký hợp đồng vận chuyển với Hãng hàng không (“người vận chuyển”) và đã thanh toán cho họ cước phí vận chuyển (BL.110). Trong mối quan hệ với CC-HH, NĐ_Hải Âu không phải là Hãng hàng không làm nhiệm vụ vận chuyển, mà là “người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa”. Ngay tại đơn khởi kiện (BL.148), NĐ_Hải Âu đã xác nhận rõ quan hệ tranh chấp là quan hệ “hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa” được giao kết vào ngày 28/02/2004. Vận đơn hàng không số NĐ_Hải Âu-400053 ngày 03/3/2004 (BL.78-73) mà NĐ_Hải Âu cấp cho CC-HH thực chất chỉ là loại “vận đơn thứ cấp” như quy định tại Điều 141 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 (tham khảo). Vì vậy, luật nội dung điều chỉnh quan hệ tranh chấp phải là Luật Thương mại 1997 (có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/1998 đến hết ngày 31/12/2005), cụ thể là các quy định về hành vi thương mại “Dịch vụ giao nhận hàng hóa” từ

Điều 163 đến Điều 171.

Khoản 4 Điều 167 Luật Thương mại 1997 quy định: “Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa có những quyền và nghĩa vụ sau đây:

Sau khi ký kết hợp đồng, nếu xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được toàn bộ hoặc một phần những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách

Tại phiếu yêu cầu chuyên chở ngày 26/02/2004 gửi cho NĐ_Hải Âu (BL.54-51), CC-HH đã “chỉ dẫn” rõ “cước phí trả trước bởi LQ_công ty C.N Blue”. Ngày 28/02/2004, NĐ_Hải Âu gửi thông báo cho CC-HH , xác nhận đã đặt chỗ cho lô hàng cần vận chuyển của CC-HH. Như vậy, hợp đồng kinh tế bằng “tài liệu giao dịch” (như quy định tại Điều 11

Pháp lệnh hợp đồng kinh tế) đã được ký kết giữa CC-HH và NĐ_Hải Âu , với điều khoản thanh toán được thỏa thuận là “cước phí trả trước bởi LQ_công ty C.N Blue”. Tuy nhiên, khi thực hiện nghĩa vụ vận chuyển lô hàng trên vào ngày 03/3/2004, NĐ_Hải Âu vẫn chưa được LQ_CNB thanh toán tiền cước phí, “không thực hiện được toàn bộ chỉ dẫn của khách hàng”, nhưng NĐ_Hải Âu đã không thông báo cho CC-HH để xin chỉ dẫn thêm như quy định  tại  Khoản  4  Điều  167  Luật  Thương  mại  1997  đã  dẫn  chiếu  trên  (chỉ  đến  ngảy

21/10/2004, NĐ_Hải Âu mới có thư điện tử (BL.80) thông báo việc không được thanh

toán đủ cho CC-HH).

Khoản 7 Điều 168 Luật Thương mại 1997 quy định: “Khách hàng có những quyền và nghĩa vụ sau đây:

Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí phát sinh cho người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của khách hàng hoặc do lỗi của khách hàng gây

ra”.

Việc không nhận được đẩy đủ cước phí vận chuyển trên vận đơn thứ cấp hoàn toàn do lỗi “Không thực hiện đúng chỉ dẫn của khách hàng” của NĐ_Hải Âu. Không có lỗi của CC-HH. Theo quy định tại Khoản 7 Điều 168 Luật Thương mại 1997 đã dẫn chiếu trên, CC-HH không có nghĩa vụ trả cho NĐ_Hải Âu số tiền cước phí vận chuyển còn thiếu.

Theo các tài liệu có trong hồ sơ thấy: Trước khi CC-HH có yêu cầu vận chuyển gửi cho NĐ_Hải Âu vào ngày 26/02/2004 thì từ ngày 09/02/2004, giữa LQ_CNB và NĐ_Hải Âu đã có thỏa thuận với nhau về việc vận chuyển lô hàng này với điều kiện cước phí trả trước (BL.203-201). Khi không được thanh toán, NĐ_Hải Âu đã lập “Phiếu ghi nợ” cho LQ_CNB (BL.63) chứ không phải là CC-HH. Tại phiên tòa sơ thẩm (BL.162, 161) đại diện của NĐ_Hải Âu xác nhận “ngay sau khi liên lạc với phía Công ty LQ_CNB không được thanh toán, chúng tôi đòi BĐ_công ty trách nhiệm hữu hạn Chin Chang qua Email ngày 21/10/2004. Như vậy, tại thời điểm giao kết, thực hiện hợp đồng và hơn bảy tháng sau ngày vận chuyển lô hàng, NĐ_Hải Âu đã xác định rõ người có trách nhiệm trả tiền cho mình là LQ_CNB chứ không phải là CC-HH. Chỉ sau khi gặp rủi ro do không thực hiện đúng thỏa thuận “cước phí trả trước bởi LQ_công ty C.N Blue ” trên hợp đồng và vận đơn thứ cấp, NĐ_Hải Âu mới tìm đến người yêu cầu vận chuyển là CC-HH để đòi tiền.

Từ những nhận định trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Chấp nhận yêu cầu kháng nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Hủy bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 475/KDTM-ST ngày 21/9/2006 của Tòa án nhân dân thành phố HCM, giao hố sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố HCM để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Quyết đinh giám đốc này có hiệu lực pháp luật.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                    

                    

 

 

 

Tên bản án

Bản số 09/2008/KDTM-GĐT Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa

Số hiệu 09/2008/KDTM-GĐT Ngày xét xử 03/6/2008
Bình luận án