TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Số: 103/2006/KDTM-ST

Ngày: 10/05/2006

v/v:   Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                                                                         

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:  

1. Ông Nguyễn Trung Tín - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

2. Bà Đặng Phương Du  - Hội thẩm nhân dân

3. Bà Cao Sang Sang  - Hội thẩm nhân dân

Nguyễn Trung Anh – Cán bộ Tòa án nhân dân HN - Thư ký phiên toà

Ngày 10.5.2006 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2006/TLST-KDTM ngày 16.3.2006 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2006/QĐXX-ST ngày 20 tháng 4 năm 2006 giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN: 
Công ty SX KD XNK giấy Linda

Trụ sở: 701 Kim Dương Vương – Quận 6 – Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:

Ông Nguyễn Ngọc Quý - đại diện theo giấy ủy quyền ngày 24.10.2005 của Tổng giám đốc Công ty và giám đốc nhà máy bao bì Linda Phương Bắc

BỊ ĐƠN:
Công ty TNHH Kinh doanh và chế biến lương thực Nhật Tiến.

Trụ sở: Khu công nghiệp Kiên Thành – Gia Lâm – Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn:

Ông Nguyễn Trung Quang - đại diện theo giấy ủy quyền số 89/UQ-VT ngày 23.3.2006 của giám đốc Công ty

NHẬN THẤY

Trong đơn khởi kiện ngày 22.2.2006, nguyên đơn là Công ty SX KD XNK giấy Linda trình bày:

Giữa nguyên đơn và bị đơn là Công ty TNHH Kinh doanh và chế biến lương thực Nhật Tiến có giao kết hợp đồng kinh doanh thương mại về mua bán hàng hóa. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn yêu cầu tòa án giải quyết buộc bị đơn phải trả số tiền còn thiếu với số nợ gốc là 614.230.481đ và khoản tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định từ thời điểm phát sinh đến khi kết thúc việc thanh toán nợ. Trong quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu đã nêu trong đơn khởi kiện là đòi bị đơn số nợ gốc là 614.230.481đ và số nợ lãi theo từng đợt giao hàng đến ngày 31.3.2006 với mức lãi suất là 1,03% /tháng thành tiền 86.674.722đ. Tổng cộng cả gốc và lãi là 700.905.203đ. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn xác nhận còn nợ nguyên đơn số tiền gốc còn thiếu như đã nêu ở trên là 614.230.481đ. Còn tiền lãi do hiện nay gặp nhiều khó khăn trong việc sản xuất kinh doanh, do đó đề nghị nguyên đơn miễn giảm cho Công ty một phần lãi.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ kiện, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Trong năm 2004 và 2005 nhà máy bao bì Linda Phương Bắc - đơn vị trực thuộc Công ty SX KD XNK giấy Lindacó ký 3 hợp đồng mua bán với Công ty TNHH Kinh doanh và chế biến lương thực Nhật Tiến – cụ thể:
- Hợp đồng thứ nhất số 10/2004 ký ngày 24.6.2004 giữa bên A – Nhà máy bao bì Linda do ông Phạm Huy Thông – Giám đốc đại diện với bên B – Công ty TNHH Kinh doanh và chế biến lương thực Nhật Tiến do ông Nguyễn Ngọc Tiến – Giám đốc đại diện. Theo hợp đồng bên A bán cho bên B các cuộn bao bì dùng để đóng gói các sản phẩm mì, phở, cháo ăn liền với số lượng, chất lượng, giá cả được quy định cụ thể trong hợp đồng. Thời gian thanh toán theo từng đợt hóa đơn giao hàng chậm nhất 25 ngày kể từ ngày xuất hóa đơn VAT.
Ngày 1.1.2005 hai bên ký phụ lục hợp đồng số 01/10HĐ/2004 để điều chỉnh lại giá và gia hạn thời gian thực hiện hợp đồng đến hết ngày 31.12.2005.
- Hợp đồng thứ hai số 28PB/2005 ký ngày 7.3.2005. Theo đó bên A bán cho bên B cuộn màng mì 1 màu Family, số lượng 200.000m2 thành tiền 374.000.00đ. Thời hạn thanh toán quy định giống như hợp đồng số 10/2004 tức là bên B thanh toán đủ theo từng hóa đơn giao hàng chậm nhất là 25 ngày kể từ ngày xuất hóa đơn VAT.
- Hợp đồng thứ ba số 32 PB/2005 ký ngày 14.3.2005. Theo đó bên A bán cho bên B cuộn mì chua cay Hàn Quốc, số lượng 240.500m2 – thành tiền 532.829.550đ. Thời hạn thanh toán quy định giống như 2 hợp đồng nêu trên.
Trong quá trình thực hiện các hợp đồng, bên đã nhận được đầy đủ hàng và không có ý kiến thắc mắc gì về chất lượng, số lượng hàng hóa. Tuy nhiên trong quá trình thanh toán, đối với hợp đồng số 10/2004 ngày 24.6.2004 bên B vẫn còn nợ bên A 15 hóa đơn được xuất từ ngày 6.9.2004 đến 18.2.2005 có giá trị là 470.139.281đ; đối với hợp đồng số 28 PB/2005 ngày 7.3.2005 còn nợ 03 hóa đơn xuất từ ngày 12.3.2005 đến 22.3.2005 có giá trị 47.124.000đ; đối với hợp đồng số 32PB/2005 ngày 14.3.2005 còn nợ 03 hóa đơn xuất từ ngày 22.3.2005 đến 7.4.2005 có giá trị 96.967.200đ.
Như vậy tổng số tiền bên B chưa thanh toán cho bên A của cả 3 hợp đồng là 614.230.481đ. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn thừa nhận chưa thanh toán trả nguyên đơn số tiền còn thiếu của các hóa đơn đúng như lời trình bày của nguyên đơn. Như vậy yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn số tiền nợ gốc của 3 hợp đồng số 10/2004, số 28PB/2005 và số 32 PB/2005 là 614.230.481đ là hoàn toàn có cơ sở được chấp nhận.
Về yêu cầu đòi khoản tiền lãi của nguyên đơn, Tòa nhận thấy:
Theo quy định tại điều 6 – phương thức thanh toán của 3 hợp đồng nêu trên, 2 bên có thỏa thuận: “Trường hợp bên B thanh toán chậm so với quy định của hợp đồng thì bên B phải chịu lãi phạt chậm thanh toán theo mức lãi phạt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định”.
Đại diện nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả khoản nợ lãi theo như thỏa thuận (tức là sau 25 ngày kể từ ngày xuất hóa đơn VAT) đến 31.3.2006 với mức lãi suất là 1,03%/tháng – Tổng số tiền lãi phía nguyên đơn yêu cầu là 86.674.722đ.
Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng mà các bên ký kết là hợp đồng mua bán, được điều chỉnh bởi Luật Thương mại.
Theo Điều 306 Luật Thương mại quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả..”.

Nay phía nguyên đơn yêu cầu đòi khoản tiền lãi với mức lãi suất 1,03%/tháng là phù hợp với mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố trên thị trường từ ngày 1.2.2006 và cũng hoàn toàn phù hợp với thỏa thuận tại điều 6 của các hợp đồng đã ký kết.
Tại phiên tòa, Công ty Nhật Tiến đề nghị nguyên đơn xem xét giảm một phần nợ lãi cho Công ty vì hiện nay Công ty đang gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Song phía nguyên đơn không đồng ý nên tòa án không có cơ sở để ghi nhận. Do đó cần chấp nhận yêu cầu đòi khoản tiền lãi của nguyên đơn là 86.674.722đ.
Về án phí: Do yêu cầu của Công ty SX KD XNK giấy Lindađược chấp nhận nên Công ty không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, được hoàn lại khoản tiền dự phí đã nộp.
Công ty TNHH Kinh doanh và chế biến lương thực Nhật Tiến phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH


Căn cứ điều 30, 306 Luật Thương mại.

Căn cứ điều 29, điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Nghị định70/CP của Chính phủ ban hành ngày 12.6.1997 quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Căn cứ Thông tư liên tịch số 01/1997 hướng dẫn việc thi hành về tài sản.
ŒChấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty SX KD XNK giấy Lindađối với Công ty TNHH Kinh doanh và chế biến lương thực Nhật Tiến trong 3 hợp đồng mua bán số 10/2004 ngày 24.6.2004; hợp đồng số 28 PB/2005 ngày 7.3.2005 và hợp đồng số 32 PB/2005 ngày 14.3.2005.
 Buộc Công ty TNHH Kinh doanh và chế biến lương thực Nhật Tiến phải thanh toán cho Công ty SX KD XNK giấy Lindasố tiền nợ theo 3 hợp đồng nói trên là 700.905.203đ (Bảy trăm triệu, chín trăm linh năm ngàn, hai trăm linh ba đồng). Trong đó số nợ gốc là 614.230.481đ (Hai trăm mười bốn triệu, hai trăm ba mươi ngàn, bốn trăm tám mốt đồng) và số nợ lãi là 86.674.722đ (Tám sáu triệu, sáu trăm bảy bốn ngàn, bảy trăm hai hai đồng).
Ž Về án phí:

Công ty TNHH Kinh doanh và chế biến lương thực Nhật Tiến phải chịu 22.000.000đ số tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Hoàn trả Công ty SX KD XNK giấy Lindasố tiền dự phí án phí đã nộp là 10.000.000đ (Mười triệu đồng chẵn) theo giấy nộp tiền số 06 ngày 13.3.2006 tại kho bạc Nhà nước thành phố Hà Nội vào tài khoản của thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.
Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

 

 

Tên bản án

Bản án số 103/2006/KDTM-ST Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English