QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 111/2014/DS-GĐT NGÀY 25/03/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

 

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 25/3/2014, tại trụ sở Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” do có Quyết định kháng nghị số 590/2013/KN-DS, ngày 27/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2011/DSPT ngày 20/01/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Minh có các đương sự là

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ren, sinh năm 1939.

Trú tại: Tổ 6, ấp Xóm Đồng, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, thành Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Thon, sinh năm 1968.

Anh Thon trú cùng địa chỉ với ông Ren. Chỗ ở khác: Tổ 8, ấp Xóm Đồng, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phạm Thị Á, sinh năm 1940 (bà Á là vợ của ông Ren và trú cùng địa chỉ với ông Ren).

2. Chị Nguyễn Ngọc Sương, sinh năm 1964 (chị Sương là vợ anh Thon và trú cùng địa chỉ với anh Thon).

NHẬN THẤY

Tại đơn khởi kiện ngày 30/9/2008 nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Ren trình bày: Ông có diện tích đất 750m2 tọa lạc tại ấp Xóm Đồng, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi do con trai ông là anh Nguyễn Văn Thon quản lý, sử dụng từ năm 1994. Năm 2001, ông viết giấy tay chuyển nhượng cho anh Thon phần đất 324m(trong số 750m2nêu trên) với giá 62 triệu đồng, phần đất còn lại 426m2 ông chỉ cho anh Thon mượn. Năm 2007, anh Thon làm hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, khi đó ông có giao kèo chỉ chuyển nhượng phần diện tích 324m2 đất mà ông đã ký giấy tay bán cho anh Thon năm 2001 chứ không chuyển nhượng toàn bộ phần diện tích đất mà anh Thon đang sử dụng 750m2. Hai bên thống nhất cùng ra UBND xã Tân Phú Trung tiến hành làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 324m2 theo quy định. Sau đó vài tháng, khi xem lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thấy anh Thon đã chuyển toàn bộ diện tích đất 750m2 (trong đó có phần đất 426m2 ông chỉ cho anh Thon mượn) sang tên anh Thon. Ông yêu cầu anh Thon làm rõ thì anh Thon có thái độ thách thức và cho rằng 750m2 đất trên đã thuộc quyền sử dụng của anh. Nay ông yêu cầu anh Thon phải trả lại cho ông phần diện tích đất mà ông không chuyển nhượng cho anh Thon theo đo đạc thực tế là 382,2m2 trong diện tích 750m2 đất nêu trên. Đối với diện tích 324m2 (đo thực té 368,4m2) đất mà ông đã chuyển nhượng cho anh Thon thì ông không tranh chấp.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn Thon trình bày: Năm 1993, anh lập gia đình riêng, cuối năm 1994, cha mẹ anh có cho anh một miếng đất cất nhà ở riêng. Tháng 12/2006, anh có đặt vấn đề sang tên diện tích đất mà cha mẹ đã cho nên ngày 14/12/2006, ông Ren đồng ý cùng ra UBND xã để tương phân diện tích đất mà cha mẹ đã cho vợ chồng anh ở được 13 năm (phần đất hiện ông Ren đang tranh chấp) và một phần diện tích đất bên cạnh nhà mà anh đã sang nhượng lại của cha, mẹ vào năm 2001 với giá 62 triệu đồng. Nay anh không đồng ý trả lại phần đất mà cha, mẹ đã cho anh.

Người liên quan là bà Phạm Thị Á (vợ ông Ren) thống nhất với lời trình bày của ông Ren; người liên quan là chị Nguyễn Ngọc Sương (vợ anh Thon) thống nhất với lời trình bày của anh Thon.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 338/2010/DSST ngày 27/10/2010, Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Không chấp nhận yêu cầu đòi lại quyền sử dụng 382,2m2 đất của ông Ren, bà Á đối với anh Thon, chị Sương.

Ngày 02/11/2010, ông Ren kháng cáo.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2011/DSPT ngày 20/01/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Sửa án sơ thẩm, chấp nhận đơn kháng cáo của ông Ren, buộc anh Thon trả lại cho ông Ren, bà Á phần đất 382,2m2

và ông Ren, bà Á bồi hoàn giá trị tài sản trên đất cho anh Thon, chị Sương là 52.688.000.

Ngày 17/3/2011 và ngày 10/6/2011 anh Thon, chị Sương khiếu nại bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 590/2013/KN-DS, ngày 27/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2011/DSPT ngày 20/01/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đe nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 338/2010/DSST ngày 27/10/2010 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện VKSND tối cao đề nghị chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Căn cứ bản đồ hiện trạng vị trí lập ngày 23/7/2010 diện tích đất 750m2 thuộc thửa 123, tờ bản đồ số 25 xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh chia làm hai khu: Khu 1 diện tích 324m2 (đo thực tế 368,4m2) đất vườn ông Ren đã chuyển nhượng cho anh Thon, nay các bên không tranh chấp. Khu 2 diện tích 426m2 (đo thực tế 382,2m2) thì ông Ren, bà Á cho rằng ông chỉ cho anh Thon mượn. Năm 2007, anh Thon làm hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì ông Ren và anh Thon thống nhất ra Ủy ban nhân dân xã Tân Phú Trung tiến hành làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 324m2 theo quy định. Tuy nhiên, khi xem lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông thấy anh Thon đã chuyển toàn bộ diện tích đất 750m2đất (trong đó có phần đất 382,2m2 ông chỉ cho anh Thon mượn) sang tên anh Thon nên ông yêu cầu anh Thon phải trả lại cho ông, bà phần đất này.

Trong khi đó, anh Thon, chị Sương cho rằng phần diện tích 382,2m2 ông Ren, bà Á cho vợ chồng anh ở từ năm 1993, 1994; trên đất có nhà, sân...do anh, chị xây dựng. Năm 2007, anh, chị làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì kết hợp phần đất 368,4m2 anh, chị nhận chuyển nhượng của ông Ren, bà Á năm 2001 và anh Thon được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 750mthửa số 123, tờ bản đồ’số 25 nêri anh, chị không đồng ý trả phần đất 382,2m2.

Căn cứ họp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã Tân Phú Trung ngày 14/12/2006 thì ông Ren tặng cho anh Thon toàn bộ diện tích đất 750,6m2. Ông Ren cho rằng ông chỉ ra Ủy ban nhân dân xã ký tên chuyển nhượng phần đất 368,4m2 cho anh Thon, còn phần đất 382,2m2 ông Ren chỉ cho anh Thon mượn. Ồng Ren thừa nhận chữ ký trong họp đồng tặng cho ngày14/12/2006 là của ông và ngoài lời khai ông Ren cũng không có chứng cứ chứng minh ông chỉ ký tên chuyển nhượng 368,4m2.

Bà Á không ký tên trong hợp đồng tặng cho ngày 14/12/2006. Lời khai của bà Á ngày 30/3/2009 thì bà Á chỉ ký hợp đồng chuyển nhượng một phần đất cho anh Thon vào năm 2001. Bà không ký hợp đồng nào tặng cho anh Thon toàn bộ 750,6m2 đất và cũng không đồng ý với hợp đồng tặng cho anh Thon cả phần đất 382,2m2. Do vậy, văn bản hợp đồng tặng cho trên vô hiệu đối với phần của bà Á.

Tuy nhiên, phần đất tranh chấp 382,2m2 thì các bên đều thừa nhận anh Thon, chị Sưcmg quản lý, sử dụng từ năm 1994; trên đất anh Thon, chị Sương xây dựng nhà ở và các công trình phụ thì ông Ren, bà Á cũng không có ý kiến gì. Do vậy, Tòa án các cấp cũng cần phải xem xét những phần công trình mà anh Thon đã xây dựng trên đất thì coi như phần đất đó cha, mẹ đã cho con; những phần đất còn lại trong diện tích 382,2m2 thì trả lại cho bà Á. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Ren, bà Á đòi lại phần đất 382,2m2, còn Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Ren, bà Á, buộc anh Thon, chị Sương phải trả lại toàn bộ phần đất 382,2m2 đều là không đúng.

Từ những phân tích trên, xét kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ chấp nhận.

Căn cứ khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2011/DSPT ngày 20/01/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 338/2010/DSST ngày 27/10/2010 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Ren với bị đơn là anh Nguyễn Văn Thon.

Tên bản án

Bản án số 111/2014/DS-GĐT về vụ án tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án

Tiếng Việt

English